Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ?

Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ?
Mấy ngày nay người dân "ồn ào" thậm chí bức xúc với quy định tăng mức xử phạt tiền đối với người vi phạm quy định về đăng ký quyền sở hữu đối với phương tiện giao thông cá nhân theo quy định tại Điều 33 Nghị định 34/2010/NĐ-CP.
Theo đó, theo Nghị định số 71/2012/NĐ-CP thì mức phạt tiền đối với trường hợp không chuyển quyền sở hữu phương tiện xe mô tô, xe gắn máy; các loại xe tương tự mô tô từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng; đối với xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô là từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Theo khoản 2 Điều 439 Bộ luật Dân sự thì “Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó”. Đồng thời, theo 36/2010/TT-BCA thì “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ mua bán, cho, tặng, thừa kế xe, người mua hoặc nhận xe phải đến cơ quan đăng ký xe đang quản lý xe đó làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe.”
Như vậy, quy định phải đăng ký xe là cần thiết, pháp luật cần quy định việc đăng ký để xác lập quyền sở hữu, đảm bảo quản lý các phương tiện giao thông, có cơ sở để xác định chủ sở hữu của phương tiện tham gia giao thông trong các trường hợp rủi ro, gây tai nạn ... để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan ...
Tuy nhiên, sự phản ứng mạnh mẽ của người dân đối với số tiền phạt được đẩy lên rất cao đối với việc vi phạm vấn đề đăng ký quyền sở hữu xe là có cơ sở, bởi lẽ quy định xử phạt này từ Nghị định 34/2010/NĐ-CP đến nay là Nghị định số 71/2012/NĐ-CP nâng số tiền phạt lên thì đều chỉ là việc cố gắng đuổi theo một nếp sống, một thực tiễn đang diễn ra trong xã hội nhưng khó lòng theo kịp.
Từ câu chuyện nâng số tiền phạt lên hòng siết chặt công tác quản lý việc đăng ký xe nói riêng trong vấn đề quản lý giao thông sẽ đặt ra những giả thiết của người dân về sự không khả thi của pháp luật. Như việc, cho dù đã có sự chuyển nhượng, tặng cho ... tài sản là các phương tiện nói trên thì khi kiểm tra, xử lý người dân có thể lách luật để chứng minh rằng mình mượn xe của người thân, bạn bè đi thì xử lý thế nào?
Còn nếu cứ gọi lại người đi đường để kiểm tra xem có chính chủ hay không để tìm cách xử phạt, thu tiền thì chắc chắn sẽ dẫn đến một vướng mắc liên quan đến thời gian, sự phiền phức cho người dân và cho cả những người thi hành nhiệm vụ tìm người để phạt. Những mâu thuẫn đó dấy lên sự không an tâm của người dân về khả năng áp dụng vào thực tế của các quy định xử lý hành chính đối với sai phạm.
Tất nhiên, người dân cũng cần hiểu là Chính phủ ban hành các quy định nói trên để xử lý các trường hợp đã chuyển nhượng phương tiện mà không đăng ký quyền sở hữu theo quy định, chứ không thể nào được phép phạt người dân sử dụng xe không thuộc quyền sở hữu của mình.
Mọi hành vi lạm dụng quy định để bắt xe, kiểm tra sự chính chủ hay không của người điều khiển phương tiện giao thông sẽ là hoạt động cản trở giao thông ngược trở lại từ phía chính quyền. Lạm dụng chuyện chính chủ hay không chính chủ của người điều khiển phương tiện là cách sớm nhất và hiệu quả nhất để cấm cản khả năng ra khỏi nhà, hòa vào dòng chảy không ngừng nghỉ của người dân trong một xã hội mà phương tiện giao thông cá nhân là chủ yếu và phổ biến.
Ngoài ra, Nghị định71/2012/NĐ-CP được ban hành chỉ cho thấy những điểm mới chủ đạo chỉ là ở mức tiền phạt tiền được tăng lên gấp nhiều lần so với mức phạt cũ. Đánh vào túi tiền của người dân, từ chuyện thu phí vận hành đến chuyện xử lý hành chính các trường hợp vi phạm đang cho thấy khả năng Chính phủ đang đổ lên đầu người dân trách nhiệm cho mọi sự rối rắm của câu chuyện giao thông hiện nay.
Dòng chảy tiền từ túi dân sẽ cuồn cuộn hơn chảy vào ngân sách Chính phủ nếu mức phạt được tăng lên, thế nhưng số tiền này lại được đầu tư thiếu hiệu quả, bị cắt xén bởi hiện trạng tham nhũng nhiều, bị uổng phí bởi việc quy hoạch ngớ ngẩn và hiện trạng giao thông tồi tệ của nước nhà càng tồi tệ hơn ... Đó đâu phải là giải pháp!
Cho nên, người dân lại lãnh đủ. Từ chuyện phải bỏ thêm nhiều tiền, đến chuyện phải chịu đựng một hiện trạng giao thông tắc nghẽn ô nhiễm và không an toàn. Phạt, phạt nữa, phạt mãi, phạt nhiều, để làm gì, thưa Chính phủ?
Lê Cao

Nguồn: Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ?

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô


Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô

Các bảng nêu bên dưới là tổng hợp các mức phạt vi phạm giao thông đối với một số lỗi phổ biến thường gặp trong thực tế áp dụng cho xe mô tô (ví dụ: lỗi vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm, đi ngược chiều, chở ba, rẽ không xi nhan, đi xe đi trên hè phố; để xe trên lòng đường, hè phố…) quy định tại Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (có hiệu lực từ ngày 10/11/2012).
Lưu ý: Một số lỗi nếu vi phạm ở khu vực nội thành của đô thị loại đặc biệt thì không áp dụng mức phạt chung mà áp dụng mức phạt riêng, cao hơn bình thường.
Xem thêmCác mức phạt về lỗi liên quan đến giấy tờ xe theo nghị định 71/2012
Mức phạt đối với các lỗi: lái xe uống rượu (say rượu), sử dụng ma túy:
STT
Lỗi vi phạm
Mức phạt (VNĐ)
1
Điều khiển xe mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở
500.000 - 1 triệu
2
Điều khiển xe mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở
2 - 3 triệu
3
Điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy
2 - 3 triệu
4
Không chấp hành yêu cầu kiểm tra chất ma túy, nồng độ cồn của người kiểm soát giao thông hoặc người thi hành công vụ
2 - 3 triệu
Mức phạt các lỗi quá tốc độ, đua xe trái phép, lạng lách đánh võng:
STT
Lỗi vi phạm
Mức phạt (VNĐ)
1
Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h
100.000 - 200.000
2
Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h
500.000 - 1 triệu
3
Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h
2 - 3 triệu
4
Không chú ý quan sát, điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định gây TNGT
2 - 3 triệu
5
Điều khiển xe chạy dàn hàng ngang từ 3 xe trở lên
80.000 - 100.000
(100.000 - 200.000 nếu là đô thị ĐB)
6
Điều khiển xe thành đoàn gây cản trở giao thông
200.000 - 400.000
7
Điều khiển xe lạng lách, đánh võng trên đường bộ trong, ngoài đô thị
5 - 7 triệu
8
Điều khiển xe thành nhóm từ 2 xe trở lên chạy quá tốc độ quy định
5 - 7 triệu
Mức phạt đối với các lỗi đi sai làn, chuyển hướng, vượt, nhường đường không đúng quy định:
STT
Lỗi vi phạm
Mức phạt
(VNĐ)
Khu vực nội thành đô thị đặc biệt
1
Không có báo hiệu xin vượt trước khi vượt
60.000 - 80.000
Áp dụng chung
2
Không giữ khoảng cách an toàn để va chạm với xe trước
60.000 - 80.000
Áp dụng chung
3
Không giữ khoảng cách theo quy định của biển “cự ly tối thiểu giữa hai xe”
60.000 - 80.000
Áp dụng chung
4
Chuyển hướng không nhường quyền đi trước cho người đi bộ, xe lăn người khuyết tật qua đường tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ; xe thô sơ đang đi trên phần đường dành cho xe thô sơ
60.000 - 80.000
Áp dụng chung
5
Chuyển hướng không nhường đường các xe đi ngược chiều; người đi bộ, xe lăn người khuyết tật đang qua đường tại nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ
60.000 - 80.000
Áp dụng chung
6
Dùng đèn chiếu xa khi tránh nhau
40.000 - 60.000
Áp dụng chung
7
Chuyển làn đường không đúng nơi được phép
80.000 - 100.000
100.000 - 200.000
8
Chuyển làn đường không có tín hiệu báo trước
80.000 - 100.000
100.000 - 200.000
9
Điều khiển xe không đi bên phải theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường, làn đường
80.000 - 100.000
100.000 - 200.000
10
Không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn
80.000 - 100.000
Áp dụng chung
11
Không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên, đường chính từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau
80.000 - 100.000
Áp dụng chung
12
Tránh xe không đúng quy định; không nhường đường cho xe đi ngược chiều theo quy định tại nơi đường hẹp, đường dốc, nơi có chướng ngại vật
80.000 - 100.000
Áp dụng chung
13
Quay đầu xe tại nơi cấm quay đầu xe
80.000 - 100.000
Áp dụng chung
14
Không giảm tốc độ hoặc không nhường đường khi điều khiển xe chạy từ trong ngõ, đường nhánh ra đường chính
100.000 - 200.000
Áp dụng chung
15
Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ
200.000 - 400.000
Áp dụng chung
16
Không nhường đường hoặc gây cản trở xe ưu tiên
200.000 - 400.000; giữ GPLX 30 ngày
300.000 - 500.000; giữ GPLX 30 ngày
17
Vượt bên phải trong các trường hợp không được phép
200.000 - 400.000
Áp dụng chung
18
Vượt xe hoặc chuyển làn đường trái quy định gây tai nạn giao thông
2 - 3 triệu; giữ GPLX 60 ngày
Áp dụng chung
19
Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường;
100.000 - 200.000
300.000 - 500.000; giữ GPLX 30 ngày
Mức phạt các lỗi liên quan phổ biến khác:
STT
Lỗi vi phạm
Mức phạt
(VNĐ)
Mức phạt khu vực nội thành của đô thị loại đặc biệt
1
Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường
60.000 - 80.000
100.000 - 200.000
2
Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông (vượt đèn đỏ, tiến vào ngã tư khi đang có đèn đỏ hoặc đèn vàng)
200.000 - 400.000
300.000 - 500.000
3
Đi ngược chiều của đường một chiều trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp
200.000 - 400.000
Áp dụng chung
4
Đi vào đường cấm, khu vực cấm trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp
200.000 - 400.000
Áp dụng chung
5
Không đi bên phải theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường, làn đường quy định
200.000 - 400.000
400.000-800.000;giữ GPLX 30 ngày
6
Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông
100.000 - 200.000
Áp dụng chung
7
Chở người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người vi phạm pháp luật
100.000 - 200.000
Áp dụng chung
8
Chở theo 2 người trên xe, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 14 tuổi, áp giải người vi phạm pháp luật
100.000 - 200.000
Áp dụng chung
9
Chở theo từ 3 người trở lên trên xe
200.000 - 400.000; Tước GPLX 30 ngày
Áp dụng chung
10
Điều khiển xe đi trên hè phố
200.000 - 400.000
400.000-800.000;giữ GPLX 30 ngày
11
Dừng, đỗ xe ở lòng đường đô thị gây cản trở giao thông; đỗ, để xe ở lòng đường đô thị, hè phố trái quy định pháp luật
100.000 - 200.000
300.000 - 500.000
12
Không sử dụng đèn chiếu sáng về ban đêm hoặc khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm nhìn
80.000 - 100.000
Áp dụng chung
13
Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ
200.000 - 400.000
Áp dụng chung
 

Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

BLLĐ 2012 - QUY ĐỊNH HÀNH VI QUẤY RỐI TÌNH DỤC NƠI CÔNG SỞ

BLLĐ 2012 - Chấm dứt hợp đồng lao động vì bị quấy rối tình dục

Trong những ngày gần đây, dư luận cũng đang có sự quan tâm rất nhiều đến các chính sách mới được quy định trong Bộ luật Lao động 2012 sẽ có hiệu lực từ 01/7/2013, trong đó “Quấy rối tình dục tại nơi làm việc” lần đầu tiên được đưa ra đề làm điều kiện cho người lao động chấm dứt hợp đồng làm việc. Vậy theo luật sư, dưới phương diện của người áp dụng pháp luật có thể hiểu quy định này như thế nào?
Quấy rối tình dục nơi làm việc như hành vi cố tình chạm vào “chỗ nhạy cảm” của đồng nghiệp, buông lời khiếm nhã - Quấy rối tình dục không chỉ là nhưng hành động sờ mó mà đó còn là những lời nói thiếu nghiêm túc mà nhiều phụ nữ làm việc tại các công sở, nơi làm việc vẫn phải chịu những câu hỏi về tuổi tác, những lời bình luận sàm sỡ hay lời nói thô thiển về tình dục.
Quấy rối tình dục nơi làm việc không chỉ riêng nhân viên, người lao động nữ mà các nam nhân viên cũng bị quấy rối ở những mức độ khác nhau và đặc biệt trước xã hội đang có những thay đổi về tư duy nhận thức về giới tính thì nhân viên nam hay nữ ít nhiều đều bị tác động.
Quấy rối tình dục nơi làm việc làm xấu đi các quan hệ lao động, tác động đến tinh thần của nhân viên, người lao động dẫn đến giảm năng suất lao động.
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2012 QUY ĐỊNH HÀNH VI QUẤY RỐI TÌNH DỤC NƠI CÔNG SỞ
/userfiles/files/48709/Files/20901739_images1943799_qr1.jpg

1. Xử lý hành vi quấy rối tình dục nơi làm việc và nơi công cộng
 Tùy vào tính chất mức độ của các hành vi quấy rối là cơ sở để xử lý. Pháp luật quy định như sau:
- Vấn đề xử lý vi phạm hành chính: Người quấy rối thực hiện những hành vi “Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác” thì theo Điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số73/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 12 tháng 07 năm 2010 “Hành vi vi phạm trật tự công cộng: 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;”
Thông thường nạn nhân bị quấy rối tình dục không khiếu nại vì họ cảm thấy xấu hổ vì điều đó nên không dám tố giác những hành vi vi phạm.
- Về mặt hình sự: Nếu hành vi quấy rối mà xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự người khác thì cũng có thể bị xử lý hình sự theo Điều 121 Bộ luật Hình sự về Tội làm nhục người khác: Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai  năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Tuy nhiên, đây là tội làm nhục người khác là việc hạ thấp danh dự, nhân phẩm của một người trước một người khác.
            Tuy nhiên, về hành vi của việc quấy rối tình dục không đủ yếu tố để cấu hành tội làm nhục người khác.
Vấn đề xử lý hành vi quấy rối tình dục phụ thuộc rất nhiều vào việc cá nhận bị quấy rối phải tố giác hành vi và phải có những bằng chứng, chứng minh sự xâm phạm của người có hành vi quấy rối. Nhưng với quan điểm của người Á đông, sự mặc cảm về việc bàn tán hay lo sợ mất việc cũng là yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn trong việc xử lý và hạn chế.
2. Điểm mới của Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về hành vi quấy rối tình dục nơi làm việc
Trước những hạn chế của việc xử lý hành vi Quấy rối tình dục nơi công sở thì Bộ luật Lao động 2012 thông qua ngày 18/6/2012 và có hiệu lực ngày 01/5/2013 là cơ sở để người lao động và các tổ chức Công đoàn có một cơ chế an toàn để có thể khiếu nại, đó là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để người lao động được bảo vệ.
Theo quy định Điều 8 Bộ luật Lao động về các hành vi bị nghiêm cấm trong đó có hành vi “ngược đãi người lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc”. Luật mới cũng quy định về Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động (Điểm c Khoản 1, Điều 37 BLLĐ) “Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động
Ngay cả trong việc thuê, mướn người giúp việc, Bộ luật Lao động mới cũng quy định khá nghiêm trong vấn đề này, việc “thông báo kịp thời với người sử dụng lao động về những khả năng, nguy cơ gây tai nạn, đe dọa an toàn, sức khỏe, tính mạng, tài sản của gia đình người sử dụng lao động và bản thân” (Khoản 4 Điều 182, BLLĐ) – Đây là nghĩa vụ của lao động là người giúp việc gia đình. Đồng thời quy định Những hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động đối với lao động là người giúp việc trong gia đình, cấm “ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động, dùng vũ lực đối với lao động là người giúp việc gia đình” (Khoản 1 Điều 183, BLLĐ).
Với những điểm mới này là bước khởi đầu cho việc hạn chế sự xâm phạm. Tuy nhiên, BLLĐ mới chưa đưa ra được sự giải thích cụ thể về khái niệm “quấy rối tình dục” để có thể hình dung cụ thể về hành vi nào, lời nói ra sao, điệu bộ, cử chỉ như thế nào mới được xem là “quấy rối tình dục”. Mặc khác, trong BLLĐ cũng chỉ mới nêu những hành vi bị cấm, quyền và nghĩa vụ của người lao động nhưng chưa có những chế tài cụ thể, trách nhiệm bồi thường ra sao.
Vì vậy, để áp dụng được BLLĐ liên quan đến vấn đề “quấy rối tình dục”, cơ quan nhà nước cần có những quy định rõ ràng và cụ thể hơn, có những mức phạt đối với hành vi tương thích. Đồng thời, cần tuyên truyền, phổ biến đến đông đảo lực lượng lao động và người dân.

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

Nghị quyết 19-NQ/TW - NQ TƯ 6

Nghị quyết  19-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 
Toàn văn Nghị quyết:
I - TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn lực đất đai phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định xã hội, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường... Hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai từng bước được tăng cường; chính sách, pháp luật về đất đai ngày càng được hoàn thiện; các quyền của người sử dụng đất được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm; thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất đã được hình thành và phát triển nhanh. Kết quả đó khẳng định các quan điểm chỉ đạo, định hướng chính sách, pháp luật về đất đai được xác định trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX cơ bản là đúng đắn, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư, các thủ tục hành chính về đất đai. Lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo đảm tương xứng; nguồn lực về đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; việc sử dụng đất nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp; tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực này còn lớn; thị trường bất động sản phát triển không ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch "ngầm" còn khá phổ biến; tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là: Đất đai có nguồn gốc rất đa dạng; chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ; chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành về đất đai còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; việc thể chế hoá còn chậm, chưa thật đồng bộ. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai và các chính sách, pháp luật có liên quan chưa nghiêm. Công tác tuyên truyền, giáo dục và quán triệt các chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai còn kém hiệu quả; việc thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý đất đai chưa tốt. Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn hạn chế. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi sai phạm chưa nghiêm. Hiệu lực, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn thấp. Tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai và các cơ quan liên quan còn nhiều bất cập, hạn chế; một bộ phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu, được xác định cụ thể phù hợp với từng loại đất, từng đối tượng và hình thức giao đất, cho thuê đất. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội theo quy định của pháp luật.
- Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn và có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, tuỳ theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Người sử dụng đất có nghĩa vụ phải đăng ký quyền sử dụng đất, sử dụng đất đúng mục đích, tuân thủ quy hoạch, trả lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất, chấp hành pháp luật về đất đai.
Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về đất đai. Không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình và cá nhân, nhưng Nhà nước có chính sách phù hợp để đất nông nghiệp được người trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng với hiệu quả cao nhất.
- Đất đai được phân bổ hợp lý, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả cao; bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài, bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; nâng cao chất lượng và bảo vệ đất canh tác nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
- Chính sách, pháp luật về đất đai phải góp phần ổn định chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế; huy động tốt nhất nguồn lực từ đất để phát triển đất nước; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư; bảo đảm cho thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất, phát triển lành mạnh, ngăn chặn tình trạng đầu cơ. Sử dụng có hiệu quả các công cụ về giá, thuế trong quản lý đất đai nhằm khắc phục tình trạng lãng phí, tham nhũng, khiếu kiện.
 - Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai; đẩy mạnh cải cách hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch trong quản lý đất đai. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ về đất đai. Xây dựng hệ thống quản lý đất đai tiên tiến, ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin đất đai hiện đại.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn dân trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai. Bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước cấp Trung ương về đất đai, đồng thời phân cấp phù hợp cho địa phương, có chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai. Kiên quyết lập lại trật tự trong quản lý, sử dụng đất đai.
III- ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI
Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, trên cơ sở kế thừa những định hướng về chính sách, pháp luật đất đai đã nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai. Cụ thể như sau:
1- Quy hoạch sử dụng đất
Đổi mới, nâng cao tính liên kết, đồng bộ giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng, quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất theo hướng quy hoạch sử dụng đất phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý, sử dụng hiệu quả đất đai cho các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và đơn vị hành chính. Quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải phù hợp với các chỉ tiêu, tiến độ sử dụng đất được phân bổ trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Đổi mới kế hoạch sử dụng đất hằng năm theo hướng phải thể hiện được nhu cầu sử dụng đất của các dự án đầu tư, của các ngành, lĩnh vực, làm căn cứ để Nhà nước thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và xây dựng chính sách tài chính về đất đai. Tăng cường kiểm tra, giám sát thống nhất từ Trung ương đến địa phương trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quản lý chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất có rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy hoạch sử dụng đất.
Có cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch đồng bộ với cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội để khai thác tiềm năng đất đai tại các vùng trung du, miền núi, ven biển, hạn chế tối đa việc sử dụng đất chuyên trồng lúa.
Từng bước thực hiện di dời các cơ sở sản xuất, các đơn vị sự nghiệp tập trung đông người ra khỏi trung tâm thành phố, nhất là các thành phố lớn, để khai thác, sử dụng đất có hiệu quả theo quy định, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm ùn tắc giao thông.
2- Giao đất, cho thuê đất
Thu hẹp các đối tượng được giao đất và mở rộng đối tượng được thuê đất. Việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Tiếp tục giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng có thời hạn theo hướng kéo dài hơn quy định hiện hành để khuyến khích nông dân gắn bó hơn với đất và yên tâm đầu tư sản xuất. Đồng thời, mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng, từng giai đoạn để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai, từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp. Sớm có giải pháp đáp ứng nhu cầu đất sản xuất và việc làm cho bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đang không có đất sản xuất.
Tập trung rà soát, xử lý dứt điểm những trường hợp đất đã giao cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức đoàn thể nhưng không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích, trái pháp luật. Thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi sắp xếp lại trụ sở, cơ sở làm việc thuộc sở hữu nhà nước để chuyển sang mục đích phát triển kinh tế.
Quy định cụ thể điều kiện để nhà đầu tư được giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời có chế tài đồng bộ, cụ thể để xử lý nghiêm, dứt điểm các trường hợp đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhưng sử dụng lãng phí, không đúng mục đích, đầu cơ đất, chậm đưa đất vào sử dụng; không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất, giá trị đã đầu tư vào đất đối với các trường hợp bị thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai.
3- Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất hằng năm đã được xét duyệt. Quy định rõ ràng và cụ thể hơn các trường hợp Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội. Đối với các dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với nhà đầu tư để thực hiện dự án.
Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thuộc trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Kiện toàn, nâng cao năng lực của tổ chức có chức năng phát triển quỹ đất để bảo đảm thực thi nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất.
Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định của pháp luật. Người sử dụng đất được bồi thường theo mục đích đất đang sử dụng hợp pháp. Tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất và bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có đất bị thu hồi. Nghiên cứu phương thức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ để bảo đảm ổn định đời sống lâu dài cho người có đất bị thu hồi.
Hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động các nguồn vốn xây dựng các khu dân cư có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để bố trí chỗ ở mới cho người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa. Khu dân cư được xây dựng phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền.
4- Đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận
Thực hiện đăng ký bắt buộc về quyền sử dụng đất. Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho người đã đăng ký đất đai theo quy định của pháp luật, đồng thời có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các trường hợp giao dịch không đăng ký tại cơ quan nhà nước.
Tăng cường đầu tư nguồn lực để đo đạc, lập bản đồ, hồ sơ địa chính, xây dựng cơ sở dữ liệu, cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đáp ứng nhu cầu của người sử dụng đất.
5- Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được giao quyền sử dụng đất
Quy định cụ thể điều kiện thực hiện các quyền của người sử dụng đất, điều kiện nhà đầu tư được nhận quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư. Khuyến khích việc cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư.
6- Phát triển thị trường bất động sản
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển lành mạnh, bền vững thị trường bất động sản. Tăng cường sự quản lý, điều tiết của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Việc phát triển đô thị, các dự án kinh doanh bất động sản phải phù hợp với quy hoạch, nhu cầu của thị trường. Đẩy mạnh phát triển nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội để từng bước cải thiện điều kiện nhà ở của nhân dân.
Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, chỉnh trang đô thị, cần quy hoạch cả phần diện tích đất bên cạnh công trình kết cấu hạ tầng, vùng phụ cận để thu hồi đất, tạo nguồn lực từ đất đai đầu tư cho các công trình này, hỗ trợ người có đất bị thu hồi và tăng thu ngân sách nhà nước; đồng thời ưu tiên cho người bị thu hồi đất ở được giao đất hoặc mua nhà trên diện tích đất đã thu hồi mở rộng theo quy định của pháp luật.
Nhà nước chủ động điều tiết thị trường bằng quan hệ cung - cầu; từng bước thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch bất động sản; rà soát lại các điều kiện lựa chọn nhà đầu tư, bảo đảm nhà đầu tư phải có đủ năng lực thực hiện các dự án bất động sản.
7- Chính sách tài chính về đất đai
Nhà nước chủ động điều tiết thị trường bất động sản thông qua việc đổi mới chính sách tài chính về đất đai, nhất là chính sách thuế. Xây dựng cơ chế tăng cường, đa dạng hoá các nguồn vốn cho quỹ phát triển đất, trong đó có việc trích từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nhằm tạo quỹ đất, tạo quỹ nhà tái định cư, quỹ nhà ở xã hội.
Rà soát các chính sách ưu đãi về thuế, bảo đảm công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện, chống thất thu thuế. Có chính sách, mức thu hợp lý để nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả. Nhà nước thực hiện chính sách thuế luỹ tiến đối với các dự án đầu tư chậm hoặc bỏ hoang không đưa đất vào sử dụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.
Nghiên cứu ban hành thuế bất động sản (đối tượng chịu thuế phải bao gồm cả đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất). Người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đất bỏ hoang, đất đã giao, đã cho thuê, nhưng chậm đưa vào sử dụng thì phải chịu mức thuế cao hơn.
Thực hiện nghiêm Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế thu nhập cá nhân, trong đó có thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, không thực hiện việc thu thuế theo mức khoán.
8- Giá đất
Giá đất do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm định giá, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Chính phủ quy định phương pháp định giá đất và khung giá đất làm căn cứ để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành bảng giá đất. Bổ sung quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất bảo đảm linh hoạt, phù hợp với từng loại đất, các đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất, cho thuê đất. Có cơ chế để xử lý chênh lệch giá đất tại khu vực giáp ranh giữa các địa phương.
Kiện toàn cơ quan định giá đất của Nhà nước, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác định giá đất và thẩm định giá đất. Cơ quan tham mưu xây dựng giá đất và cơ quan thẩm định giá đất là hai cơ quan độc lập; làm rõ trách nhiệm cơ quan giải quyết khiếu nại về giá đất trong bồi thường giải phóng mặt bằng.
Làm tốt công tác theo dõi, cập nhật biến động giá đất trên thị trường; từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất tới từng thửa đất. Có cơ chế giám sát các cơ quan chức năng và tổ chức định giá đất độc lập trong việc định giá đất. Khuyến khích phát triển các tổ chức tư vấn định giá đất độc lập.
9- Cải cách hành chính
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành, địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả và không chồng chéo.
Phân cấp việc quy định trình tự, thủ tục hành chính về đất đai và gắn với trách nhiệm giải quyết của từng cấp chính quyền địa phương cho phù hợp với chủ trương, yêu cầu cải cách thủ tục hành chính và điều kiện cụ thể theo từng giai đoạn.
Rà soát, sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hướng vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa phát huy quyền chủ động của địa phương. Kiểm soát chặt chẽ việc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ sang đất phi nông nghiệp. Điều chỉnh thẩm quyền của cấp tỉnh, cấp huyện cho phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính.
Tăng cường giám sát đội ngũ cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ trong quản lý đất đai; xử lý nghiêm các trường hợp nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
10- Thanh tra, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Các cơ quan có thẩm quyền phải tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự; công bố công khai kết quả giải quyết.
Củng cố, kiện toàn hệ thống thanh tra đất đai, toà án các cấp; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ xét xử đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ thanh tra viên, cán bộ xét xử, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chế tài xử lý đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm.
11- Nâng cao năng lực quản lý đất đai
Đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá chất lượng, tiềm năng đất đai đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng đất, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật đất đai cho cộng đồng, nhất là đối với đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin về đất đai và tài sản gắn liền với đất theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch, phục vụ đa mục tiêu; từng bước chuyển sang giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai. Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hoàn thành việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực cán bộ, công chức trong ngành quản lý đất đai; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện tổ chức, cơ chế hoạt động của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất theo mô hình dịch vụ công, tập trung một cấp tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và có các chi nhánh đặt tại các quận, huyện, khu vực đông dân cư để tạo thuận lợi cho người dân; trước mắt thực hiện đối với khu vực đô thị.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng cường năng lực của Tổ chức phát triển quỹ đất, từng bước chuyển Tổ chức phát triển quỹ đất sang mô hình doanh nghiệp phát triển quỹ đất; phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ về đất đai.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Các cấp uỷ đảng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng chỉ đạo quán triệt sâu sắc nội dung của Nghị quyết và tăng cường lãnh đạo, tạo sự thống nhất cả về nhận thức và hành động trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết.
- Trong năm 2013, Bộ Chính trị chỉ đạo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 16-6-2003 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh để có phương án tổ chức lại các nông, lâm trường, có cơ chế, chính sách để bảo đảm sử dụng đất lâm nghiệp có hiệu quả kinh tế, xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003; đồng thời rà soát, hoàn thiện các đạo luật có liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện trong phạm vi cả nước.
- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo sửa đổi, bổ sung các văn bản dưới luật; chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch cụ thể thực hiện Nghị quyết một cách đồng bộ, có hiệu quả. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết và kịp thời điều chỉnh các chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tế.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể đẩy mạnh vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia và giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
- Các ban đảng ở Trung ương theo chức năng giúp Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo dõi, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết. Văn phòng Trung ương Đảng phối hợp với các cơ quan có liên quan theo dõi tình hình thực hiện Nghị quyết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Download toàn văn Nghị quyết 19 tại đây:Nghị quyết 19-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6