Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

Thông tư 11/2013/TT-BCA hướng dẫn 71/2012/NĐ-CP xử phạt hành chính GTĐB

Bộ Công an vừa ban hành Thông tư số 11/2013/TT-BCA ngày 01 tháng 03 năm 2013 hướng dẫn Nghị định 71/2012 về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.

Đây là bộ nội dung công văn Thông tư số 11/2013/TT-BCA :


BỘ CÔNG AN
--------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
Số: 11/2013/TT-BCA
Hà Nội, ngày 01 tháng 03 năm 2013

THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 34/2010/NĐ-CP NGÀY 02/10/2010 VÀ NGHỊ ĐỊNH SỐ 71/2012/NĐ-CP NGÀY 19/9/2012 SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH 34/2010/NĐ-CP QUY ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Căn cứ Luật Giao thông đường bộ năm 2008;
Căn cứ Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đi, b sung một s điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008;
Căn cứ Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP;
Căn cứ Nghị định s 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an;
Theo đề nghị của Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự, an toàn xã hội;
Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Thông tư quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/10/2010 và Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ,
Chương 1.
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư này quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 và Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (sau đây viết gọn là Nghị định số 34).
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Thông tư này áp dụng đối với:
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
2. Công an các đơn vị, địa phương.
3. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính hoặc liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Chương 2.
QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Điều 3. Xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ đối với người chưa thành niên
1. Việc xác định độ tuổi đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ phải căn cứ vào một trong các giấy tờ sau: giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú.
2. Trường hp vi phạm bị xử phạt theo thủ tục đơn giản
Tại thời điểm kiểm soát, chưa có căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều này để xác định về độ tuổi, mà hành vi của người vi phạm bị xử phạt theo thủ tục đơn giản, thì người có thẩm quyền vẫn ra quyết định xử phạt và được tạm giữ giấy tờ có liên quan đến người điều khiển, phương tiện hoặc tạm giữ phương tiện theo quy định; khi tạm giữ giấy tờ, người có thẩm quyền phải ghi vào mặt sau quyết định xử phạt lý do tạm giữ, địa điểm, thời hạn hẹn đến để giải quyết (không quá 10 ngày) và ký, ghi rõ họ tên.
a) Trong thời hạn hẹn giải quyết, trường hợp người vi phạm xuất trình được một trong các giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều này để chứng minh độ tuổi không bị xử phạt, thì người đã ra quyết định xử phạt phải hủy quyết định, trả lại giấy tờ hoặc phương tiện đã tạm giữ; trường hợp xuất trình được một trong các giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều này để chứng minh về độ tuổi, nhưng các hành vi còn lại khác của người vi phạm vẫn bị xử phạt theo quy định tại các điều, khoản, điểm của Nghị định số 34, thì người có thẩm quyền phải hủy quyết định xử phạt đó và ra quyết định xử phạt mới theo quy định.
b) Hết thời hạn hẹn giải quyết, người vi phạm mới xuất trình được giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều này để chứng minh về độ tuổi, thì người vi phạm vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt.
3. Trường hp vi phạm bị xử phạt theo thủ tục lập biên bản
Tại thời điểm kiểm soát, chưa có đủ căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều này để xác định độ tuổi, mà hành vi của người vi phạm bị xử phạt theo thủ tục lập biên bản, thì người có thẩm quyền:
a) Lập biên bản vi phạm hành chính;
b) Xác định về độ tuổi theo quy định tại Khoản 1 Điều này;
c) Tiến hành xử lý vi phạm hành chính theo quy định.
Điều 4. Xử phạt hành vi quay đầu xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức vi đường sắt; không thực hiện đúng các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đưng bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dừng xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt (Điểm d Khoản 3 Điều 8; Đim h Khoản 3 Điều 9; Điểm e Khoản 4 Điều 10; Điểm b Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 34)
1. Quay đầu xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt được hiểu là quay đầu xe trong phạm vi giữa 02 biển báo hiệu đường bộ số 242a hoặc phạm vi giữa 02 biển báo hiệu đường bộ số 242b “Nơi đường sắt giao nhau với đường bộ” (ở nơi có đặt biển báo hiệu); trong phạm vi 10 mét tính từ đường ray ngoài cùng của đường sắt trở ra về hai phía (ở nơi không đặt biển báo hiệu).
2. Dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt được hiểu là dng xe, đỗ xe trong phạm vi giữa 02 biển báo hiệu đường bộ số 242a hoặc phạm vi giữa 02 biển báo hiệu đường bộ số 242b “Nơi đường sắt giao nhau với đường bộ” (ở nơi có đặt biển báo hiệu); trong phạm vi 10 mét tính từ đường ray ngoài cùng của đường sắt trở ra về hai phía (ở nơi không đặt biển báo hiệu); trừ trường hp dừng xe để cho phương tiện đường sắt được quyền ưu tiên đi trước hoặc xe bị hư hỏng (người lái xe phải thực hiện theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4, Khoản 5 Điều 25 Luật Giao thông đường bộ).
3. Dừng xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt được hiểu là dừng xe, đỗ xe mà bộ phận gần nhất của xe cách mép ray gần nhất dưới 1,75 mét đối với đường sắt khổ 01 mét hoặc dưới 02 mét đối với đường sắt khổ 1,435 mét; trừ trường hợp xe bị hư hỏng trong phạm vi an toàn của đường sắt (người lái xe phải thực hiện theo quy định tại Khoản 5 Điều 25 Luật Giao thông đường bộ).
Người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự ô tô; xe mô tô, xe gắn máy (kcả xe máy điện), các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy; máy kéo, xe máy chuyên dùng; xe đạp, xe đạp máy, xe thô sơ khác có hành vi quay đầu xe, dừng xe, đỗ xe trong phạm vi quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều này; tùy theo từng loại xe đang điều khiển, bị xử phạt về hành vi vi phạm quy định tại Điểm d Khoản 3 Điều 8; Điểm h Khoản 3 Điều 9; Điểm e Khoản 4 Điều 10; Điểm b Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 34.
Điều 5. Xử phạt hành vi điều khiển xe không lắp đủ bánh lốp hoặc lắp bánh lốp không đúng kích c hoặc không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật (Điểm d Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 34); tự ý thay đổi kích thước thành thùng xe (Điểm đ Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 34)
1. Xe không lắp đủ bánh lốp được hiểu là xe đó lắp số lượng lốp thực tế không đủ như số lượng ghi trong bảng thông số thiết kế kỹ thuật xe của nhà sản xuất, Giấy đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
a) Xe lắp bánh lốp không đúng kích cỡ được hiểu là xe đó có một hoặc nhiều lốp xe có kích cỡ không đúng với kích cỡ lốp xe ghi trong bảng thông số thiết kế kỹ thuật xe của nhà sản xuất, Giấy đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
b) Xe lắp bánh lốp không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật được hiểu là xe đó có một hoặc nhiều lốp xe không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật. Căn cứ Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với ô tô (QCVN: 09/2011/BGTVT ngày 17/11/2011 của Bộ Giao thông vận tải), quy định tiêu chuẩn kỹ thuật của bánh xe như sau:
- Các chi tiết kẹp chặt và phòng lỏng đầy đủ, đúng quy cách.
- Vành, đĩa, vòng hãm đúng kiểu loại, không biến dạng, không rạn nứt, không cong vênh, không có biểu hiện hư hỏng. Vòng hãm khít vào vành bánh xe.
- Moay ơ quay trơn, không bó kẹt, không có độ dơ dọc trục và hướng kính.
- Lốp đúng kích cỡ và đúng tiêu chuẩn kỹ thuật của từng loại xe, đủ số lượng, đủ áp suất, không phồng rộp, không nứt vỡ và không mòn tới lp sợi mành.
- Lốp của bánh xe dẫn hướng không sử dụng lốp đắp, cùng kiểu hoa lốp, chiều cao hoa lốp phải đồng đều và có trị số như sau:
STT
Loi xe
Chiều cao hoa lp (mm)
1
Ô tô con đến 09 ch ngi (kcả chngười lái), Ô tô con chuyên dùng
Không nhỏ hơn 1,6
2
Ô tô khách trên 09 ch (kcả chngười lái)
Không nhỏ hơn 2,0
3
Ô tô tải, ô tô chuyên dùng
Không nhỏ hơn 1,0
Người có hành vi điều khiển xe không lắp đủ bánh lốp hoặc lắp bánh lốp không đúng kích cỡ hoặc không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật phải bị xử phạt theo quy định tại Điểm d Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 34.
2. Thay đổi kích thước thành thùng xe được hiểu là thay đổi chiều cao của thành thùng xe so với kích thước thiết kế của nhà sản xuất, kích thước ghi trong Giấy đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Người có hành vi tự ý thay đổi kích thước thành thùng xe phải bị xử phạt theo quy định tại Điểm đ Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 34.
3. Trường hp kích thước thành thùng xe đã được cải tạo ghi trong Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, nhưng không đúng với kích thước ghi trong Giấy đăng ký xe, thì chủ phương tiện bị xử phạt về hành vi không làm thủ tục đổi lại Giấy đăng ký xe khi xe đã được cải tạo (Điểm đ Khoản 4 Điều 33 Nghị định số 34).
Điều 6. Xử phạt hành vi ngưi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy không mang theo Giấy đăng ký xe, Giấy phép lái xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (Điểm b, Điểm c Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 34); người điều khiển xe ô tô, máy kéo không mang theo Giấy đăng ký xe, Giấy phép lái xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (Điểm b Khoản 3 Điều 24 Nghị định số 34); ngưi điều khiển xe máy chuyên dùng không mang theo bằng (hoặc chứng chỉ) điều khiển và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ (Điểm b Khoản 1 Điều 25 Nghị định số 34)
Tại thời điểm kiểm soát, người điều khiển phương tiện không xuất trình được Giấy đăng ký xe; Giấy phép lái xe; bằng (hoặc chứng chỉ) điều khin và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ; Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (sau đây gọi là giấy tờ), mà người đó trình bày là có nhưng không mang theo thì lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi không có giấy tờ theo quy định; tạm giữ phương tiện theo quy định.
a) Trong thời hạn hẹn giải quyết, trường hợp người có thẩm quyền chưa ra quyết định xử phạt, người vi phạm xuất trình được các giấy tờ theo quy định: thì cán bộ thực hiện nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính phải tạm giữ giấy tờ đó, ghi vào mặt sau biên bản vi phạm hành chính (bản lưu) về thời gian xuất trình được giấy tờ; ký, ghi rõ họ, tên; báo cáo người có thẩm quyền trả lại phương tiện bị tạm giữ cho người vi phạm; ra quyết định xử phạt về hành vi không mang theo giấy tờ.
b) Trong thời hạn hẹn giải quyết, trường hp người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt về hành vi không có giấy tờ theo quy định, người vi phạm xuất trình được các giấy tờ theo quy định, thì cán bộ thực hiện nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính phải tạm giữ giấy tờ đó, ghi vào mặt sau biên bản vi phạm hành chính (bản lưu) về thời gian xuất trình được giấy tờ; ký, ghi rõ họ, tên; báo cáo với người có thẩm quyền để hủy quyết định xử phạt về hành vi không có giấy tờ theo quy định, trả lại phương tiện bị tạm giữ cho người vi phạm; ra quyết định xử phạt về hành vi không mang theo giấy tờ.
c) Hết thời hạn hẹn giải quyết, người vi phạm mới xuất trình được giấy ttheo quy định, thì phải chấp hành quyết định xử phạt về hành vi vi phạm ghi trong biên bản vi phạm hành chính.
Điều 7. Xử phạt hành vi ngưi điều khin xe ô tô chở người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện (Khoản 2, Khoản 4 Điều 26 Nghị định số 34)
1. Số người được phép chở quá đối với tng loại xe nhưng không bị xử phạt.
- Xe đến 9 chỗ ngồi: được phép chở quá 01 người;
- Xe từ 10 chỗ ngồi đến xe 15 chỗ ngồi: được phép chở quá 02 người;
- Xe từ 16 chỗ ngồi đến xe 30 chỗ ngồi: được phép chở quá 03 người;
- Xe trên 30 chỗ ngồi: được phép chở quá 04 người.
2. Cách tính số người chở vượt quá quy định để xử phạt (ký hiệu là X) như sau:
X = Tổng số người trên xe khi kiểm soát - (số chỗ ngồi ghi trong Giấy đăng ký xe + số người được phép chở quá đối với từng loại xe nhưng không bị xử phạt).
Ví dụ: Khi kim soát, phát hiện xe ô tô chở ngưi loại xe 45 chỗ ngồi (ghi trong Giấy đăng ký xe), nhưng thực tế trên xe chở 50 người. Đây là loại xe chở người trên 30 chỗ ngồi; trường hợp này, cách tính số người chở vượt quá quy định để xử phạt như sau:
X = 50 người - (45 người + 04 người) = 01 người chở vượt quá quy định bị xử phạt.
Điều 8. Tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ
1. Người đang thi hành công vụ khi lập biên bản vi phạm hành chính đối với ngưi điều khiển phương tiện có hành vi vi phạm mà Nghị định số 34 quy định hành vi đó bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ (sau đây viết gọn là Giấy phép lái xe) có thời hạn hoặc không thời hạn, thì phải tạm giữ Giấy phép lái xe để bảo đảm cho việc xử lý vi phạm hành chính.
2. Quyết định xử phạt phải ghi rõ thời hạn tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định xử phạt, người đã ra quyết định xử phạt phải thông báo bằng văn bản (mẫu số 07 ban hành kèm theo Thông tư số 66/2012/TT-BCA ngày 30/10/2012 của Bộ Công an quy định về Quy trình tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm hành chính của Cảnh sát giao thông đường bộ) cho cơ quan cấp Giấy phép lái xe đó.
3. Trường hợp người có hành vi vi phạm bị áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe theo quy định tại Nghị định số 34, mà người đó có Giấy phép lái xe hạng thấp hơn so với loại xe đang điều khiển, thì vẫn ra quyết định tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe đó; đồng thời, bổ sung xử phạt về hành vi có Giấy phép lái xe nhưng không phù hợp với loại xe đang điều khiển.
4. Thời hạn tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe được tính từ thời điểm tạm giữ Giấy phép lái xe. Trường hp một người cùng một lúc thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính mà các hành vi vi phạm này đều có quy định bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, thì lấy thời hạn tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe đối với hành vi vi phạm có thời hạn bị tước dài nhất.
5. Hết thời hạn tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, người có thẩm quyền xử phạt trả lại Giấy phép lái xe cho người đã bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe đó. Trường hp phải học và kiểm tra lại Luật Giao thông đường bộ thì người bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe phải xuất trình Giấy chứng nhận kết quả học và kiểm tra lại Luật Giao thông đường bộ cho cơ quan ra quyết định xử phạt để nhận lại Giấy phép lái xe.
Điều 9. Xử phạt hành vi không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định (Điểm e Khoản 3 và Điểm c Khoản 6 Điều 33 Nghị định số 34)
1. Xe đang lưu thông trên đường, không được dừng xe để kiểm soát, xử hành vi “Không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định”.
2. Thông qua công tác đăng ký, cấp biển số; điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; các trường hp phương tiện vi phạm bị tạm giữ theo quy định và qua điều tra các vụ án hình sự, nếu phát hiện người mua hoặc người bán không làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe (sau đây gọi là mua, bán xe không sang tên) theo quy định tại Thông tư của Bộ Công an quy định về đăng ký xe, thì phải xác minh, xác định rõ hành vi vi phạm: “mua, bán xe không sang tên” và xử phạt trường hợp quá thời gian 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ mua, bán xe nhưng chưa làm thủ tục sang tên, di chuyển thay đổi đăng ký xe theo quy định.
Điều 10. Xử phạt hành vi chủ phương tiện giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật điều khiển xe tham gia giao thông (Điểm đ Khoản 3 và Điểm e Khoản 4 Điều 33 Nghị định số 34)
1. Người không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật điều khiển xe tham gia giao thông được hiểu là người không đủ điều kiện về độ tuổi, sức khỏe theo quy định tại Điều 60 Luật giao thông đường bộ, không có Giấy phép lái xe hoặc chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp lut về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng phù hợp với loại xe đang điều khiển theo quy định tại Điều 59 và Khoản 1 Điều 62 Luật Giao thông đường bộ.
2. Giao xe cho người không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật điều khiển xe tham gia giao thông là hành vi chủ phương tiện biết rõ người điều khiển phương tiện không đủ điều kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều này nhưng vẫn cho người này mượn, thuê, điều động...để trực tiếp điều khiển xe tham gia giao thông.
3. Để cho người không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật điều khiển xe tham gia giao thông là hành vi chủ phương tiện biết người điều khiển phương tiện không đủ điều kiện quy định tại Khoản 1 điều này mà không ngăn cản, để mặc... cho họ trực tiếp điều khiển xe tham gia giao thông.
4. Khi có căn cứ xác định chủ phương tiện giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật điều khiển xe tham gia giao thông thì xử phạt theo quy định tại Điểm đ Khoản 3 và Điểm e Khoản 4 Điều 33 Nghị định số 34.
Điều 11. Về quy định chủ sở hữu của phương tiện giao thông giới đường bộ (phương tiện sử dụng đ vi phạm) có nghĩa vụ hợp tác với quan chức năng để xác định đối tượng đã điều khiển phương tiện thực hiện hành vi vi phạm (Khoản 2 Điều 56 Nghị định số 34)
Chủ sở hữu phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là chủ xe) là cá nhân, tổ chức đứng tên trong Giấy đăng ký xe. Trường hợp cá nhân, tổ chức đứng tên trong Giấy đăng ký xe đã thực hiện giao dịch bán, cho, tặng phương tiện hoặc chuyn quyền thừa kế tài sản là phương tiện cho cá nhân, tổ chức khác thì cá nhân, tổ chức đã mua, được cho, được tặng phương tiện hoặc được thừa kế tài sản là phương tiện được gọi là chủ xe.
Chủ xe hoặc người đại diện hợp pháp (nếu chủ xe là cơ quan, tổ chức) khi nhận được thông báo bng văn bản của cơ quan chức năng về việc sử dụng phương tiện để vi phạm, có nghĩa vụ:
1. Yêu cầu người điều khiển phương tiện đã thực hiện hành vi vi phạm đến cơ quan đã gửi thông báo để giải quyết. Khi đến, phải xuất trình thông báo về việc sử dụng phương tiện để vi phạm và các giấy tờ theo quy định tại Khoản 2 Điều 58 Luật Giao thông đường bộ.
2. Trường hợp không xác định được người điều khiển phương tiện hoặc người này không thực hiện quy định tại Khoản 1 Điều này, thì phải trực tiếp đến cơ quan đã gửi thông báo để giải quyết. Khi đến giải quyết phải xuất trình thông báo về việc phương tiện bị sử dụng để vi phạm, Giấy đăng ký xe và phải ký vào biên bản vi phạm hành chính với tư cách là người chứng kiến và được chấp hành quyết định xử phạt thay cho người điều khiển phương tiện vi phạm.
Điều 12. Tạm gi giấy tờ
1. Tạm giữ giấy tờ là biện pháp bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính. Đối với từng trường hp vi phạm cụ thể thực hiện như sau:
a) Trường hợp chỉ áp dụng hình thức xử phạt tiền có thể tạm giữ một trong các loại giấy tờ theo thứ tự: Giấy phép lái xe; Giấy đăng ký xe; Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ phải có.
b) Trường hợp ngoài hình thức xử phạt tiền còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ thì phải tạm giữ các giấy tờ đó. Nếu không có giấy tờ đó thì phải tạm giữ phương tiện vi phạm.
2. Khi kiểm soát người lái xe vi phạm xuất trình biên bản vi phạm hành chính do các đơn vị, địa phương đã lập và tạm giữ giấy tờ:
a) Trường hợp quá thời hạn hẹn đến giải quyết ghi trong biên bản vi phạm hành chính và đã bị tạm giữ một loại hoặc tạm giữ hết các giấy tờ: Giấy phép lái xe hoặc Giấy chứng nhận đăng ký xe hoặc Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực mà người vi phạm chưa đến trụ sở của người có thẩm quyền xử phạt để giải quyết vụ việc vi phạm, vẫn tiếp tục điều khiển phương tiện tham gia giao thông, thì sẽ bị xử phạt như hành vi không có giấy tờ, nếu tiếp tục vi phạm hành vi mới thì phải lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi không có giấy tờ và hành vi vi phạm mới, tiến hành tạm giữ một trong các loại giấy tờ còn lại hoặc tạm giữ phương tiện (nếu hành vi quy định phải tạm giữ phương tiện hoặc không còn loại giấy tờ nào để tạm giữ) và xử lý vi phạm theo quy định.
Ví dụ: Anh A điều khiển xe ô tô vi phạm hành vi chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h đến 35 km/h (100/70 km/h), khi kiểm tra thì anh A đã bị địa phương khác lập biên bản và tạm giữ Giấy phép lái xe, biên bản này đã quá thời hạn hẹn nhưng anh A chưa đến giải quyết; anh A xuất trình được Giấy chứng nhận đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực, thì phải lập biên bản vi phạm hành chính với hai hành vi: “Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h đến 35 km/h (100/70km/h)” và “Không có Giấy phép lái xe”, tiến hành tạm giữ phương tiện theo quy định.
b) Trường hợp đang trong thời gian hẹn giải quyết ghi trong biên bản vi phạm hành chính và đã bị tạm giữ hết các giấy tờ: Giấy phép lái xe, Giấy chứng nhận đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực, mà người điều khiển phương tiện lại tiếp tục vi phạm hành vi mới thì phải lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi vi phạm mới, tạm giữ phương tiện và xử lý vi phạm theo quy định.
Điều 13. Tạm giữ phương tiện
1. Khi quyết định tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính, phải thông báo cho người vi phạm và những người có mặt tại đó biết.
2. Người ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm đưa phương tiện bị tạm giữ về nơi tạm giữ để bảo quản hoặc bàn giao phương tiện bị tạm giữ theo quy định. Trường hợp người điều khiển phương tiện không có mặt tại nơi xảy ra vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, gây cản trở, không chấp hành yêu cầu của người thi hành công vụ về việc đưa tang vật, phương tiện về nơi tạm giữ, thì lập biên bản vụ việc có chữ ký xác nhận của người chứng kiến (nếu có); sử dụng thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (máy ảnh, camera...) ghi lại hình ảnh; sử dụng các biện pháp (trực tiếp điều khiển, cẩu kéo...) đưa phương tiện đó về nơi tạm giữ; thực hiện việc thông báo (mẫu số 04 ban hành kèm theo Thông tư số 66/2012/TT-BCA ngày 30/10/2012 của Bộ Công an quy định về Quy trình tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm hành chính của Cảnh sát giao thông đường bộ) yêu cầu người vi phạm đến giải quyết và phải chịu mọi chi phí cho việc đưa phương tiện đó về nơi tạm giữ theo quy định của pháp luật.
3. Khi phát hiện hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật phải tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính thì thực hiện như sau:
a) Lập biên bản về vi phạm hành chính;
b) Ra quyết định tạm giữ hoặc báo cáo người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
c) Lập biên bản tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính.
Điều 14. Về thủ tục xử phạt
1. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008; Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008; Điều 53 Nghị định số 34. Các mẫu biên bản và quyết định để sử dụng trong việc xử phạt được quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định s 34; việc in, cấp phát, quản lý sử dụng như sau:
a) Lực lượng Công an nhân dân in, cấp phát, sử dụng, quản lý các mẫu biên bản số 01b, 03b; các mẫu quyết định số 01b, 02b, 03b ban hành kèm theo Nghị định số 34. Công an các đơn vị, địa phương căn cứ vào thời gian có hiệu lực của Luật xử lý vi phạm hành chính và tình hình thực tế công tác xử lý vi phạm hành chính của đơn vị, địa phương để dự trù số lượng bản in cho phù hp.
b) Công an các đơn vị, địa phương có trách nhiệm in đúng với nội dung, khổ giấy A4 và đóng thành quyển cho mỗi mẫu quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều này, có bìa (riêng mẫu biên bản số 01b, mẫu quyết định số 01b, 02b được đóng thành quyển 100 trang cho mỗi loại, có bìa và đánh số thứ tự); đồng thời có trách nhiệm quản lý chặt chẽ việc in, cấp phát và sử dụng theo đúng chế độ quy định. Kinh phí để in mẫu sử dụng trong việc xử phạt, được trích từ nguồn kinh phí bảo đảm trật tự, an toàn giao thông của đơn vị, địa phương.
2. Việc sử dụng các mẫu biên bản và quyết định trong xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 34; trường hợp thủ tục xử phạt có sử dụng mẫu nhưng mẫu này không được quy định ở Nghị định số 34 thì sử dụng mẫu ban hành kèm theo Thông tư số 55/2011/TT-BCA-C61 ngày 29/7/2011 của Bộ Công an quy định về các biểu mẫu để sử dụng khi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. (ví dụ: mẫu Quyết định hủy quyết định xử lý vi phạm hành chính thì sử dụng mẫu số 05/QĐ-HQĐXLVP ban hành kèm theo Thông tư 55/2011/TT-BCA).
3. Việc thu, nộp, quản lý, sử dụng tiền phạt thực hiện theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008; Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008; Điều 52 Nghị định số 34 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính
Cảnh sát giao thông đường bộ, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cảnh sát phản ứng nhanh, Trưởng Công an cấp xã có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ nếu phát hiện vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm, phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền. Trường hợp cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự, nhưng sau đó lại có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án, thì trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ vụ vi phạm và đề nghị xử phạt hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nơi đã chuyển hồ sơ vụ vi phạm hành chính đó.
Điều 15. Về ủy quyền xử lý vi phạm hành chính
Việc ủy quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ của ngưi có chức danh quy định tại Điều 41, Điều 45 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008; Điều 47, Điều 49 Nghị định số 34 phải thực hiện theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 và phải được thực hiện bằng văn bản. Quyết định ủy quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ phải ghi rõ phạm vi, nội dung, thời hạn ủy quyền.
Chương 3.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 16. Hiệu lực thi hành
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4 năm 2013; những quy định trước đây ca Bộ Công an về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
Điều 17. T chức thực hiện
1. Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự, an toàn xã hội chịu trách nhiệm chđạo, kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện Thông tư này.
2. Giám đốc Công an tỉnh, thành phtrực thuộc Trung ương có trách nhiệm chđạo Công an các đơn vị, địa phương thuộc quyền, tổ chức thực hiện nghiêm túc Thông tư này; định kỳ 06 tháng, hàng năm hoặc đột xuất tiến hành kiểm tra công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và báo cáo kết quvề Bộ (qua Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự, an toàn xã hội).
3. Các Tổng cục trưởng, Thtrưởng các đơn vị trực thuộc Bộ, Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Giám đốc các S Cnh sát phòng cháy và chữa cháy chịu trách nhiệm thi hành Thông tư này.
Trong quá trình thực hiện Thông tư này nếu có khó khăn, vướng mắc, Công an các đơn vị, địa phương báo cáo về Bộ (qua Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự, an toàn xã hội) để có hướng dẫn kịp thời./.


Nơi nhận:
- Ủy ban An toàn giao thông quốc gia;
- Các Bộ và cơ quan ngang Bộ;
- UBND các tnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các đ/c Thứ trưởng BCA (Để chđạo);
- Các Tổng cục, Bộ Tư lệnh, đơn vị trực thuộc Bộ; (Để thực hiện)
-
Công an các tnh, thành phố trực thuộc Trung ương; (Để thực hiện)
-
Các S Cnh sát phòng cháy và chữa cháy; (Để thực hiện)
- W
ebsite Bộ Công an;
- Công báo;
- Lưu: VT, C61 (C67).
BỘ TRƯỞNG




Đại tướng Trần Đại Quang

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

THÔNG TƯ 08/2013 THỰC HIỆN KẾ TOÁN NHÀ NƯỚC ÁP DỤNG CHO TABMIS

Bộ tài chính ban hành thông tư số 08/2013/TT-BTC ngày 10 tháng 1 năm 2013 hướng dẫn thực hiện kế toán Nhà nước áp dung cho hệ thống thông tin quản lý ngân sách và nghiệp vụ kho bạc (TABMIS).

Ngày hiệu lực của thông tư 08/2013: 01-03-2013.
Văn bản Thông tư 08/2013 có đính kèm theo các phục lục: 
  • Phụ lục 01:Chứng từ;
  • Phụ lục 02: TKKT TABMIS;
  • Phụ lục 03: Các đoạn mã;
  • Phụ lục 04: mẫu sổ kế toán;
  • Phụ lục 05: mẫu báo cáo;
Download toàn văn nội dung của thông tư 08/2013 có đính kèm các phụ lục  trực tiếp tại: THÔNG TƯ 08/2013/TT-BTC THỰC HIỆN KẾ TOÁN NHÀ NƯỚC ÁP DỤNG CHO TABMIS

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

Dương Trung Quốc và Bốn Điều Sai Năm Cũ (Tứ Đại Ngu)

Mình xin trích đăng lại nguyên bản bài viết của ông Hoàng Hữu Phước về "Dương Trung Quốc và Bốn Điều Sai Năm Cũ (Tứ Đại Ngu)"
Dương Trung Quốc
Bốn Điều Sai Năm Cũ (Tứ Đại Ngu)
Hoang Huu Phuoc, MIB
Phàm ở đời, cứ luận cổ suy kim thì các nhận định của Thầy Khổng cùng môn đồ ắt không phải không có phần đúng và có thể trên nền đúng cổ đó mà phát triển xum xuê kim thêm rằng
(a) người nào khi mẹ cha sinh ra đời đã tự mình biết tất tần tật lẽ phải điều hay ấy là đấng thánh nhân;
(b) người nào sinh ra đời biết tự mình tìm đến bậc thầy thiên hạ để quỳ xin theo chí thú học hành tới nơi tới chốn để biết lẽ phải điều hay là đấng đạt nhân;
(c) người nào sinh ra đời nhờ mẹ cha chọn thỉnh bậc thầy thiên hạ đến dạy mà trở nên biết lẽ phải điều hay là đấng hiền nhân;
(d) người nào vừa không được – hoặc không có – mẹ cha biết chọn bậc thầy thiên hạ, vừa bản thân cũng chẳng biết ai là bậc thầy thiên hạ để quỳ xin theo học tập để biết lẽ phải điều hay là người không có phúc phận;
(e) người nào đã được mẹ cha chọn thỉnh bậc thầy thiên hạ đến dạy nhưng dù cố gắng học hành kết quả học tập cũng không khá hơn được, khiến chẳng thể phân biệt lẽ phải điều hay, là người ngu;
(f) còn người nào dù có điều kiện hơn thiên hạ vẫn vừa không biết ai là bậc thầy trong thiên hạ để tìm đến quỳ lạy người ấy xin theo học, vừa bê tha bê bối bê trễ việc học tập học hỏi học hành nên không thể biết lẽ phải điều hay, lại hay to mồm phát ngôn toàn điều càn quấy là kẻ đại ngu.
Nay thiên hạ trong cơn u u minh minh tối tối sáng sáng của thời Mạt Pháp lúc tôn giáo suy đồi, sư sãi ngứa ngáy nhảy cà tưng cà tưng trên nóc ô-tô rống loa kích động chống lại chính quyền, linh mục điên loạn gào thét co giò đạp đổ vành móng ngựa giữa chốn pháp đình uy nghiêm khiến ngay ngoại bang cũng phải giật mình cười chê còn Tòa Thánh cũng buộc phải ngó lơ, chân lý lung lay, tà mỵ huyễn hoặc hoành hành dù nhấp nha nhấp nhổm rúc chui cống đấy cống này blog nọ blog kia cũng rống loa rao truyền sứ điệp, Lăng Tần tôi đây theo sách thánh nhân xin góp một đường chổi quét, vừa thử nêu bật phân tích Dương Trung Quốc như một tấm gương cho giới trẻ xem qua điều dở, nghiệm lấy điều ghê, vừa thử xem đối tượng được phân tích này có nhờ vậy học được đôi điều để cải hóa mà bớt xấu đi chăng.
Giới Thiệu Đôi Nét Về Dương Trung Quốc:
Dương Trung Quốc quê quán tỉnh Bến Tre, sống ở Hà Nội, trình độ học vấn: tốt nghiệp đại học môn Sử, tự dưng có danh xưng “Nhà Sử Học” trên trời rơi xuống, không rõ do tự xưng hay do thuộc hạ tung hê, ắt do ở Việt Nam và trên thế giới chỉ có “Thạc sĩ” và “Tiến sĩ” mới được gắn học vị vào tên, chứ “tốt nghiệp đại học” (tức “Cử nhân”) hay “tốt nghiệp phổ thông” (tức “Tú tài”) thì theo quy định bất thành văn của thời hiện đại không được nêu ra kèm theo tên họ, nên tức mình đau mẩy phải áp cụm từ “nhà sử học” vào tên để cho có với người ta chăng.
Tuy nhiên, việc Dương Trung Quốc không chọn danh xưng “Sử Gia” cũng là một điều khá khen là khôn ngoan, vì đã là “sử gia” thì phải là giáo sư tiến sĩ Sử, dù trong tiếng Hán Việt thì “gia” cũng là “nhà”, nhưng “gia” thì … to lắm, thế nên mới có chuyện các nhà tài phiệt chỉ được gọi là “đại gia” chứ đố ai dám vặn vẹo kiểu “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” mà nói đó là…“nhà lớn
Nhất Đại Ngu của Dương Trung Quốc:  Đĩ
Cái đại ngu thứ nhất của Dương Trung Quốc là lập lại lời thiên hạ thế gian này hay nói khi  tuyên bố danh chính ngôn thuận giữa nghị trường quốc hội rằng mại dâm là nghề cổ xưa nhất của nhân loại, rằng các nước luật hóa mại dâm nên Việt Nam đừng có đạo đức giả nữa đối với nghề mại dâm mà phải công nhận nghề này, và rằng nhất thiết phải đưa mại dâm lên bàn nghị sự của quốc hội.
Ba điểm Dương Trung Quốc nêu lên cho thấy những bảy điều xằng bậy như sau:
1) Mại dâm không là nghề cổ xưa nhất của nhân loại mà là nghề…đạo chích, tức trộm cắp. Thánh Kinh Cựu Ước của Thiên Chúa Giáo có cho biết thủa hồng hoang mới có một nam tên Adam và một nữ tên Eva, tất nhiên chưa thể phát sinh nhu cầu giải quyết sinh lý với người nữ khác nên chưa thể có mại dâm.
Song, Eva và Adam đã đồng lõa ăn trộm trái táo xơi để khai sinh ra ngành công nghiệp thời trang cho nhân loại. Việc to mồm nói mại dâm là nghề cổ xưa nhất chỉ có thể là lời khẳng định sự bó tay của nhân loại trước thân phận bọt bèo của nữ giới và tệ nạn của ma cô đàng điếm, của “nô lệ tình dục”, và của “sex trade” chứ sao lại vin vào đó để đòi “công nhận” là một “nghề” chính danh chính thức?
2) Cũng trong chương Sáng Thế Ký Genesis của Thánh Kinh Cựu Ước của Thiên Chúa Giáo có ghi việc Chúa Trời sai các thiên sứ bay đến hai thành phố Sodom và Gomorrah vung gươm tàn sát giết sạch nam (đàn ông), phụ (phụ nữ), lão (bô lão), ấu (trẻ em, hài nhi) để trị tội dâm ô đồi trụy.
Tuy Genesis không có nêu đặc biệt vấn đề đĩ điếm mại dâm nữ, song trong các chương khác của Thánh Kinh Cựu Ước và Thánh Kinh Tân Ước của Thiên Chúa Giáo như Châm Ngôn (Proverbs 23:27-28), Lu-ca (Luke 7:36-50), Ma-thi-ơ (Matthew 21:31-32) và II Cô-rinh-tô (II Corinthians 5:17), v.v. đều ghi rõ Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus sẵn sàng xóa sạch “tội lỗi” cho đĩ điếm nào tin vào Chúa. Đã là “tội lỗi” ắt đó không bao giờ là “nghề nghiệp” cả.
3) Dương Trung Quốc là đại biểu quốc hội ứng cử tại địa bàn tỉnh Đồng Nai là nơi có rất nhiều giáo xứ. Tôi đã là giáo viên chủ nhiệm một lớp do tỉnh Đồng Nai gởi đến nhờ trường Cao Đẳng Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh giúp đào tạo nên một đội ngũ giáo viên tiếng Anh thật giỏi để phục vụ ngành giáo dục tỉnh Đồng Nai.
Đa số các sinh viên này của tôi đều thuộc gia đình công giáo, và những chuyến đi thăm phụ huynh tại Đồng Nai, dù đó là thành phố Biên Hòa, hay thị trấn Xuân Lộc, Long Khánh, Long Thành, v.v., cho tôi cảm nhận được mức độ đạo hạnh cao, mẫu mực gia phong tốt lành nơi các gia đình và nơi bản thân các sinh viên này.
Việc Dương Trung Quốc phát biểu linh tinh về mại dâm là việc làm không chút khôn ngoan do động đến vấn đề liên quan đến đạo đức mà Kinh Thánh đã nêu và các cử tri là giáo dân các giáo xứ tỉnh Đồng Nai khó thể chấp nhận được sự xúc phạm, nhất là kiểu ăn nói quàng xiên rằng “không công nhận mại dâm tức là đạo đức giả”.
4) Dương Trung Quốc đã hoàn toàn không biết gì về ý nghĩa của cụm từ “đạo đức giả” cũng như các minh họa làm rõ nghĩa cụm từ này trong thực tế đời sống, trong thực tế hùng biện hàn lâm, và trong thực tế tôn giáo, mà tôi sẽ biện luận làm rõ trong một bài viết sau này.
5) Dương Trung Quốc đã hoàn toàn không biết rằng ngay tại Mỹ chỉ có vài tiểu bang và tại các tiểu bang này chỉ có một hay hai thị trấn đưa mại dâm vào danh sách “nghề” để quản lý. Mà ngay cả khi thế giới đảo điên này có công nhận “nghề” mại dâm, cũng không phải là lý do để đặt đĩ nằm chình ình trên bàn nghị sự của quốc hội Việt Nam!
6) Dương Trung Quốc đã không có tầm nhìn bao quát, sâu rộng, về vấn đề mại dâm. Dương Trung Quốc chỉ nghĩ đến mại dâm như việc đơn giản người phụ nữ có quyền bán thân để kiếm tiền và để đáp ứng nhu cầu xã hội. Dương Trung Quốc hoàn toàn không biết rằng mại dâm bao gồm đĩ cái, đĩ đực, đĩ đồng tính nữ, đĩ đồng tính nam, và đĩ ấu nhi.
Dương Trung Quốc hoàn toàn không biết rằng khi “công nhận” cái “nghề đĩ” để “quản lý” và “thu thuế”, thì phát sinh … nhu cầu phải có trường đào tạo nghề đĩ thuộc các hệ phổ thông đĩ, cao đẳng đĩ, đại học đĩ; có các giáo viên và giáo sư phân khoa đĩ; có tuyển sinh hàng năm trên toàn quốc cho phân khoa đĩ; có chương trình thực tập cho các “môn sinh” khoa đĩ; có trình luận văn tốt nghiệp đĩ trước hội đồng giảng dạy đĩ; có danh sách những người mua dâm để tuyên dương vì có công tăng thu nhập thuế trị giá gia tăng cho ngành công nghiệp đĩ; có chính sách giảm trừ chi phí công ty hay cơ quan nếu có các hóa đơn tài chính được cấp bởi các cơ sở đĩ, đặc biệt khi cơ quan dùng vé “chơi đĩ cái” tặng nam nhân viên và vé “chơi đĩ đực” cho nữ nhân viên nào ưu tú trong năm tài chính vừa qua; ban hành quy định mở doanh nghiệp cung cấp đĩ, trường dạy nghề đĩ, giá trị chứng chỉ văn bằng đĩ trên cơ sở so sánh giá trị nội địa, khu vực, hay quốc tế; và có các hướng dẫn về nội dung tờ bướm, tờ rơi, bảng quảng cáo ngoài trời, quảng cáo bên hông xe buýt và trên thân máy bay, cũng như quảng cáo online về đĩ, tập đoàn đĩ lên sàn (chứng khoán), v.v. và v.v.
7) Dương Trung Quốc đã không thể phân biệt giữa nội dung “nhân quyền” tức “quyền con người” trong việc “tự do bán thân”, với “quyền công dân” mà một đạo luật đĩ  có thể điều chỉnh hành vi.  Việt Nam đã chấm dứt việc bố ráp đưa mại dâm nữ vào cơ sở chữa bệnh-phục hồi nhân phẩm, và đây là do Việt Nam tôn trọng “quyền con người”.
Còn việc ra sức giáo dục, tuyên truyền để hạn chế sự hoành hành tác tệ của mại dâm đối với trật tự xã hội, nhân cách công dân, đạo đức xã hội, v.v., là việc mà nhà nước nào, dù thần quyền hay thế tục, đều cố gắng làm tốt. Dương Trung Quốc dường như rất vô tư đối với nội hàm làm băng hoại xã hội Việt Nam, cứ như xuất phát từ lòng căm thù bịnh hoạn nào đó đối với chế độ hiện tại của nước này vậy.
Nhị Đại Ngu của Dương Trung Quốc: Đa Đảng
Trong một video clip trả lời phỏng vấn của PhốBolsaTV, Dương Trung Quốc đã vừa nháy mắt vừa nói với nhà báo rằng các anh ấy ở Việt Nam Cộng Hòa nên biết rõ thế nào là “đa đảng”. Có cái mác “Nhà Sử Học” nhưng Dương Trung Quốc đã hoàn toàn không biết gì về lịch sử Việt Nam Cộng Hòa. Như tôi đã nói rõ trong nhiều bài viết trên các trang mạng, Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn không có bất kỳ đảng phái chính trị nào cả!
Chỉ đến năm 1974 Nguyễn Văn Thiệu mới thành lập cái gọi là Đảng Dân Chủ, với đảng kỳ là cờ vàng sao đỏ, có cùng kích cỡ như cờ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (trước 1975) và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ sau 1975 đến nay), và với Nguyễn Văn Thiệu làm Đảng Trưởng. Buổi lễ thành lập Đảng Dân Chủ của Nguyễn Văn Thiệu được tổ chức tại nơi mà nay là Trung Tâm Thể Thao Quận Bình Thạnh, gần Ủy Ban Nhân Dân Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là chi tiết mà không bất kỳ một người Mỹ gốc Việt nào biết trước khi đọc thông tin của tôi đăng trên các blog. Ăn nói hồ đồ và xằng bậy về Việt Nam Cộng Hòa là điều đại ngu thứ hai của Dương Trung Quốc.
Tam Đại Ngu của Dương Trung Quốc: Biểu Tình
Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Việt Nam khóa XIII, tháng 10 năm 2011, sau khi phát biểu xong về sự cần thiết có cái gọi là “Luật Biểu Tình”, Dương Trung Quốc nổi nóng khi nghe đại biểu Hoàng Hữu Phước phát biểu phân tích về ngữ nghĩa, ngữ nguyên, và lịch sử xuất hiện của cụm từ “protest demonstration” trong tiếng Anh mà tiếng Việt đã dịch sai thành “biểu tình” để từ đó kiến nghị chưa thể đưa lên bàn nghị sự cái gọi là “luật biểu tình” do ý tứ chưa thông, chắc chắn sẽ gây cảnh rối loạn an ninh trật tự. Vì nổi nóng trước hiện tượng chưa từng có tiền lệ tại quốc hội Việt Nam khi đại biểu Hoàng Hữu Phước được nghị trường vỗ tay đồng tình, Dương Trung Quốc đã có cái đại ngu thứ ba, gồm 5 điều xằng bậy sau:
1) Nhấn nút phát biểu tiếp lần thứ hai để chống lại đại biểu Hoàng Hữu Phước, biến nghị trường quốc hội thành nơi đấu khẩu, chà đạp “tự do ngôn luận”, trong khi nhiều trăm đại biểu khác đang chờ đến lượt họ phát biểu, như vậy đã giành giật thời gian chính đáng chính danh chính thức chính đạo của – và gây thiệt thòi cho – 499 đại biểu quốc hội thuộc các tỉnh khác của Việt Nam.
2) Do hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng, Dương Trung Quốc đã nói xằng bậy rằng “biểu tình” xuất hiện đầu tiên tại Chicago thế kỷ XIX, vì nếu không có kiến thức về ngữ nguyên học, không ai dám tự xưng là “nhà sử học” cả, vì sẽ đến ngày Dương Trung Quốc tuyên bố “biểu tình” đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam đời Nhà Trần với cuộc “biểu tình Diên Hồng”.
3) Do hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng, Dương Trung Quốc đã nói xằng bậy rằng đại biểu quốc hội không đại diện cho dân mà chỉ cho cá nhân, và như vậy chính Dương Trung Quốc khẳng định Dương Trung Quốc không đại diện cho cử tri Tỉnh Đồng Nai, tức là từ chối đại diện cho cử tri Tỉnh Đồng Nai, càng không đại diện cho bất kỳ người dân Việt nào. Đó là chưa kể Dương Trung Quốc không những xúc phạm 499 đại biểu quốc hội Việt Nam, mà lại còn nhổ toẹt vào các đạo luật về tổ chức quốc hội Việt Nam.
4) Do hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng, Dương Trung Quốc đã nói xằng bậy rằng đại biểu Hoàng Hữu Phước hãy nghiên cứu trước khi phát biểu, mà không thể hiểu rằng đại biểu thạc sĩ Hoàng Hữu Phước luôn có trách nhiệm trong từng lời phát biểu tại nghị trường và nghiên cứu sâu về lịch sử Việt Nam Cộng Hòa và lịch sử các từ ngữ tiếng Anh trong tương quan tiếng Việt.
5) Do hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng, Dương Trung Quốc đã tự làm lộ cho toàn quốc biết rằng Dương Trung Quốc không biết ngoại ngữ trong khi bản thân là “nhà sử học”.
Tứ Đại Ngu của Dương Trung Quốc: Văn Hóa Từ Chức
Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội Việt Nam Khóa XIII tháng 11 năm 2012, Dương Trung Quốc đã phát biểu chất vấn tại nghị trường quốc hội, đặt vấn đề “văn hóa từ chức” với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người lúc đó đang phải giải quyết các sai phạm nghiêm trọng xảy ra tại các tập đoàn kinh tế Vinashin và Vinaline.
Đến khi nghe Thủ tướng trả lời hùng biện, chân thiết, khúc chiết, thấu lý đạt tình, nhận được sự tán dương của 496 đại biểu quốc hội (trừ 1 đại biểu bị miễn nhiệm, 1 đại biểu qua đời khi tại nhiệm, bản thân thủ tướng, và bản thân Dương Trung Quốc), Dương Trung Quốc đã vội vàng nói thêm rằng Dương Trung Quốc sở dĩ đặt câu hỏi là để xem Thủ tướng trả lời thế nào, và với nội dung Thủ tướng vừa đối đáp thì nhân dân yên tâm, tức là đã “an dân”.
 Dương Trung Quốc trong cái đại ngu thứ tư này đã phạm 3 điều xằng bậy như sau:
1) Thủ tướng – trên nguyên tắc và lý thuyết tổ chức – đứng đầu tất cả các Bộ. Như vậy, Bộ Quốc Phòng giữ yên bờ cõi, ấy là đại công. Bộ Công An đập nát phản động, tiêu diệt bạo loạn, trừng trị tội phạm, ấy là đại công. Bộ Ngoại Giao đem lá cờ đỏ sao vàng tung bay thắng lợi đối ngoại trên toàn thế giới, ấy là đại công.
Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn và Bộ Công Thương lập kỳ tích xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, ấy là đại công. Bộ nào cũng lập công, vấn đề là công nhiều hay ít, nhiều hơn hay ít hơn những khó khăn đang tồn tại. Như vậy, cái đạo lý nào cho phép Dương Trung Quốc hỗn xược thách đố Thủ tướng có dám từ chức hay không, khi quản lý yếu kém để Vinashin và Vinaline gây thất thoát tiền của quốc gia?
Đạo lý xưa nay của riêng dân Việt là đánh giá rất cao việc đoái công chuộc tội. Đạo lý xưa nay của riêng dân Việt là công bằng, công minh, công chính. Đạo lý xưa nay của riêng dân Việt là dung hòa nhuần nhuyễn giữa lý và tình nên luôn khoan hòa và thiếu tính cực đoan. Dương Trung Quốc loạn ngôn, dám đem việc Vinashin và Vinaline ra để hỗn láo với Thủ tướng, làm lơ các đại công của các Bộ khác, mà – như đã nói ở trên – đều thuộc dưới quyền Thủ tướng.
Thử hỏi, nếu Vinashin không làm thất thoát một xu con nào, nhưng Bộ Quốc Phòng làm mất nhiều tỉnh vào tay quân giặc, Bộ Nông Nghiệp gây ra nạn đói, Bộ Y Tế để dịch bệnh tràn lan, và Bộ Công An bó tay trước bạo loạn đốt phá, v.v., thì đất nước này sẽ ra sao. Dương Trung Quốc đã mị dân khi hùng hổ phát biểu như thể chỉ có Dương Trung Quốc mới “dám” chất vấn như thế. Cái cực đoan, phủ nhận công, phi lý, và bất công là những thứ ngoại lai mà Dương Trung Quốc đã hấp thụ từ bọn giặc nào để tự tung tự tác nơi nghị trường quốc hội Việt Nam như thế?
Vinashin là rắn có đầu, và luật pháp nghiêm minh phải xử lý nặng những cái đầu ấy, tức những chức sắc hưởng lương của Vinashin để làm lãnh đạo Vinashin và làm Vinashin phá sản. Đặt vấn đề “văn hóa từ chức” phải chăng hàm ý rằng cứ từ chức là sẽ được “hạ cánh an toàn”, xem như đã giải quyết xong vụ việc?
2)  Dương Trung Quốc và một bộ phận nhỏ người Việt thường đem những thứ ngoại lai làm chuẩn mực cho các so sánh với nội tại của Việt Nam mà thiếu sự hiểu biết thấu đáo, mà cái gọi là “văn hóa từ chức” là một ví dụ.
Chính họ nhìn hiện tượng ở nước ngoài rồi tự đặt ra cụm từ “văn hóa từ chức” với sự thán phục, trong khi thực ra chẳng có gì để mà gọi đó là “văn hóa”. Khi một tai nạn thảm khốc xảy ra tại một nước tư bản, Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải nước ấy lập tức từ chức.
Đó là quy định bất thành văn để giúp “Đảng” có được 3 điều như (a) thoát được cơn thịnh nộ của người dân, (b) Đảng không bị tổn hại trong kỳ bầu cử tiếp theo, và (c) giữ toàn vẹn danh tiếng và nguồn thu cho các nhà tư bản chủ nhân các công ty chế tạo xe hỏa hoặc tàu bè hoặc máy bay lâm nạn vì các nhà tư bản này cung cấp tài chính cho “Đảng”. “Nhận trách nhiệm quản lý yêu kém” và từ chức, biến tai nạn không phải do lỗi kỹ thuật thiết bị công nghiệp, và người từ chức sẽ được đền ơn bằng cách có một chức vụ cao cấp tại một trong những công ty tư bản ấy.
Đây là việc mà bất kỳ ai cũng có thể kiểm chứng dễ dàng từ các nguồn thông tin mở. Làm gì có cái “văn hóa” và cái “tinh thần trách nhiệm” trong cái gọi là “từ chức” trong thế giới tư bản mà cứ tôn vinh, ca ngợi, và thán phục đến độ hỗn láo đem ra lập thành tích “chất vấn như Dương Trung Quốc đã làm.
3) Khi nhanh nhảu tự cứu mình trước cảnh thất bại vì không thể làm Thủ tướng bối rối hoặc mang nhục trước quốc dân, Dương Trung Quốc đã cho rằng câu chất vấn là để xem Thủ tướng trả lời ra sao. Nghị trường Quốc hội là nơi họp bàn các vấn đề trọng đại của quốc gia, thế mà Dương Trung Quốc sử dụng để test (thử nghiệm) xem Thủ tướng có tài hùng biện không. Nghị trường Quốc hội là nơi họp bàn các vấn đề trọng đại của quốc gia, thế mà Dương Trung Quốc sử dụng để ban ân cho Thủ tướng có cơ hội trổ tài hùng biện để “an dân” hầu ghi điểm son với toàn dân.
Nghị trường Quốc hội là nơi họp bàn các vấn đề trọng đại của quốc gia, thế mà Dương Trung Quốc sử dụng để đánh bóng tên tuổi của Dương Trung Quốc như nhân vật đại diện toàn dân tộc để nói lên tấm lòng của toàn dân tộc rằng toàn dân tộc đã an lòng, yên tâm trước câu trả lời chất vấn hùng biện của Thủ tướng, từ đó toàn tâm toàn ý ngưỡng mộ Thủ tướng và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo anh minh tài ba của Thủ tướng.
Từ ngữ “an dân” của Dương Trung Quốc mang nội hàm bao gồm tất cả những ý tứ như thế. Và thật khó hiểu, không rõ Dương Trung Quốc đã “lập đại công” với Thủ tướng, hay Dương Trung Quốc đã phạm đại ngu thứ tư này.
Thay Lời Kết:
Dựa theo lời Thầy Khổng từng phán, cố thể nói rằng ai muốn có điều Nhân mà không muốn học thì bị cái Ngu che mờ, muốn ta đây đầy Trí mà không muốn học đến nơi đến chốn thì bị cái Thấp Kiến  bịt trí, muốn mình có chữ Tín mà không muốn học cho nên người thì bị cái Hại Nghĩa kéo lôi, muốn khoe ta có Trực mà không muốn học cho nên người thì bị cái Ngang Ngạnh làm cho u mê, muốn Dũng mà không muốn học cho thành bậc đạt nhân thì bị cái Loạn làm cho u tối, còn muốn Cương mà không chịu học hành thì bị cái Lồng Lộn làm cho ám áng.
Dương Trung Quốc do không quen nghiên cứu hàn lâm, nên tưởng nói về “biểu tình” là chứng tỏ ta đây có lòng “Nhân” thương dân bị chính phủ làm cho khốn khổ, không ngờ đó lại là “Ngu” vì tự hét lên cho toàn nhân loại biết chính mình không hiểu ý nghĩa tiếng Việt cao siêu và không rành ngoại ngữ khi Đại biểu Hoàng Hữu Phước luận giải về “từ nguyên Anh ngữ” của  cụm từ “protest demonstration”.
Dương Trung Quốc do không quen nghiên cứu hàn lâm, nên tưởng nói về “đĩ” là chứng tỏ ta đây có trình độ “Trí” muốn nữ công dân – trong đó có các nữ nhân thuộc gia tộc Dương Trung Quốc –  có quyền tự do sử dụng vốn tự có để kinh doanh phát triển ngành công nghiệp bán dâm, không ngờ đó lại là cái “Thấp Kiến” của phường vô hạnh vô đạo đức vô lại vô duyên, dễ đem lại danh xưng “Nhà Đĩ Học” bên cạnh “Nhà Sử Học”.
Dương Trung Quốc do không quen nghiên cứu hàn lâm, nên tưởng nói về “đĩ” – “biểu tình” – “đa đảng” – “văn hóa từ chức” là chứng tỏ ta đây có uy “Tín” với dân nên được dân gởi gắm tâm tư nguyện vọng về “đĩ” – “biểu tình” – “đa đảng” – “văn hóa từ chức”, không ngờ đó lại là điều hỗn với dân và do đó “Hại Nghĩa.”
Dương Trung Quốc do không quen nghiên cứu hàn lâm, nên tưởng nói về “đĩ” – “biểu tình” – “đa đảng” – “văn hóa từ chức” là chứng tỏ ta đây có lòng trung “Trực” nói thẳng ra những điều tối thượng mà toàn dân ao ước, cả nước chờ mong, dân tộc đón chào, không ngờ đó lại là do “Ngang Ngạnh” nói càn, luận bừa, sai be sai bét, phản hàn lâm, bất tri, vô trí.
Dương Trung Quốc do không quen nghiên cứu hàn lâm, nên tưởng nói về “văn hóa từ chức” là chứng tỏ ta đây có cái  “Dũng” dám kêu Thủ Tướng Dũng đương đầu với câu hỏi “khó”, mà không ngờ đó lại chứng tỏ chính Dương Trung Quốc là “Loạn” vì không phân biệt chính-phụ, không rõ ngay-gian, nên phạm ba “loạn” gồm (a) “loạn ngôn” khi đổi trắng thay đen muốn đem một việc hỏng ra phủ định ngàn việc đạt cứ như đây là thời phong kiến hay tay sai đế quốc-thực dân, (b) “loạn hành” khi cho nghị trường là nơi để Dương Trung Quốc sử dụng “kiểm tra’ tài đối đáp của Thủ tướng, và (c) “loạn trí” khi đối đáp phản pháo trên cơ sở không nghiên cứu, chẳng nền tảng cơ sở dẫn chứng nghiêm túc, và nào có kiến thức ngoại ngữ trong thời buổi hiện đại này.
Dương Trung Quốc do không quen nghiên cứu hàn lâm, nên tưởng nói về “đĩ” – “biểu tình” – “đa đảng” – “văn hóa từ chức”  là chứng tỏ ta đây có cái  “Cương”, biết khi thời cơ đến thì phải tỏ ra cứng rắn mới chống được cường quyền, mới phục vụ được nhân dân, mà không ngờ đó chỉ là sự “Lồng Lộn” của kẻ thất phu, bất tài, vô hạnh. Trong bối cảnh tình hình phức tạp ở Biển Đông và đất nước còn bao nỗi lo toan khác thì những phát biểu về “ đĩ-biểu tình-đa đảng-văn hóa từ chức” của “nhà sử học” Dương Trung Quốc tại nghị trường lại càng trở thành một mớ hỗn độn và hỗn loạn. Lẽ ra Dương Trung Quốc nên ngậm miệng lại để các đại biểu khác có thời gian hiến kế làm đất nước hùng cường, quân đội hùng mạnh, dân tộc hùng anh, quốc gia thái bình thịnh vượng, dân chúng lạc nghiệp an cư, mới đúng là “quốc thái, dân an” đẳng cấp thánh nhân chứ không phải “an dân” kiểu hàm hồ của Dương Trung Quốc.
Thầy Khổng có phán rằng: “Tranh luận nhỏ nhặt thì hại nghĩa, nói nhảm thì phá đạo lý.” Lăng Tần tôi xuất thân nghề giáo, đến nay vẫn được môn sinh gọi là Thầy Phước, nhận thấy cái chuỗi “đĩ” – “biểu tình” – “đa đảng” – “văn hóa từ chức” là chuyện lớn đến độ Dương Trung Quốc đòi để “đĩ” nằm lên bàn nghị sự quốc hội quốc gia, đồng thời với việc Dương Trung Quốc nói nhảm nói nhí, nên trước việc hại nghĩa và phá đạo lý ấy, Thầy Phước tôi không thể phụ lời giáo huấn của Thầy Khổng, đành chắc lưỡi lập lại nguyên văn lời của Thầy Khổng rằng: “Ôi! Người ta chẳng nói thì thôi, nói ra có đúng lẽ mới nói!
Người ta” ắt không phải nói chung bàng dân thiên hạ, mà là “ta đây” vậy.
Nhất Thạc Bàn Cờ, Lăng Tần Hoàng Hữu Phước, Nhà Việt Nam Cộng Hòa Học, Nhà Biểu Tình Pờ-rô-tét Đì-mông-sờ-tra-sân Học, Nhà Đa Đảng Học, Nhà Lưỡng Đảng Học, Nhà Độc Đảng Học, Nhà Tiếng Anh Học, Nhà Thánh Kinh Học, Nhà Đủ Thứ Học Học
Máy nhắn tin: 0988898399
Email: hhphuoc@yahoo.com
Blogs: http://antichina.blog.com, http://hoanghuuphuocvietnam.blog.com, http://hhphuoc.blog.com
Tham khảo:
- Phát Biểu Tại Quốc Hội Về Luật Biểu Tình & Luật Lập Hội. 17-11-2011. http://www.emotino.com/bai-viet/19390/phat-bieu-tai-quoc-hoi-ve-luat-tinh-lap
- Ngôn Ngữ Méo Mó – Về Các Phát Biểu Gần Đây Liên Quan Đến Dự Án Luật Biểu Tình. 20-11-2011. http://www.emotino.com/bai-viet/19398/ngon-ngu-meo-mo

(Theo http://hhphuoc.blog.com/ )
 Xem thêm: http://danluat.thuvienphapluat.vn/dbqh-duong-trung-quoc-va-hoang-huu-phuoc-tu-dai-ngu-hay-mot-nguoi-ngu-86689.aspx#244155

"bốn cái ngu" mà ông Hoàng Hữu Phước cần phải học thêm nữa để trở thành một chính trị gia

Qua bài viết của mình, ông Hoàng Hữu Phước (HHP) đã cho thấy "bốn cái ngu" mà ông HHP cần phải học thêm nữa để trở thành một chính trị gia.

Thứ nhất, không lường được dư luận xã hội đối với bài viết của mình, nếu ông HHP muốn gây tiếng vang qua bài viết của mình thì ông đã thành công nhưng rất tiếc là ở khía cạnh tiêu cực. Số phản hồi tích cực rất ít hay thậm chí là không có trên các trang đăng lại. Lấy lòng dân không được thì làm sao có thể tiếp tục sự nghiệp chính trị của mình?

Thứ hai,  "cuồng ngôn loạn ngữ" trong bài viết của mình, cố tỏ ra mình là người hiểu biết "đông tây kim cổ" nhưng rốt cuộc chỉ làm trò hề cho thiên hạ. Những người phản đối việc hợp pháp hóa mại dâm cũng phải nhăn mặt khi đọc đến đoạn ông luận về tác động xấu của việc "hợp pháp hóa đĩ". Văn phong "phản biện" của một người đã từng là "thầy giáo" mà thế này ư? xấu hổ lây cho những học sinh (mà nay có thể đã là nhà giáo) đã trót học "thầy HHP". 

Thứ ba, không nắm được mong muốn và nguyện vọng của cử tri nơi bầu cho ông nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Đi ngược lại với xu thế phát triển của xã hội, của đất nước khi vẫn cứ khư khư cho rằng mình là thầy thiên hạ chỉ có quan điểm của mình là đúng nhất, hoàn hảo nhất mọi quan điểm khác với mình đều chỉ là hạ lưu, đáng bị "chửi bới, lên án".

Tứ ngu: học làm người chính trực, chẳng người chính trực nào mà lại "bắn" vào đối thủ của mình đúng vào dịp đầu năm mới, không tuyên chiến trước như thế. Trên thế giới  vào những dịp lễ quốc gia hoặc tôn giáo thì các phe phái đang "chiến tranh" cũng "đình chiến" để mọi người có thể tận hưởng ngày lễ an bình.

Tóm lại qua bài viết thì có thể đánh giá rằng ông HHP không xứng đáng là đại biểu của người dân TPHCM. Tiếc thay, tiếc thay ...

Unjustice

Nguồn: ĐBQH Dương Trung Quốc và Hoàng Hữu Phước: Tứ Đại Ngu hay Một Người Ngu ?

Thứ Tư, 6 tháng 2, 2013

Luật sư Lê Công Định ra tù

Luật sư Lê Công Định vừa được ra tù trước thời hạn

LUAT SU LE CONG DINH
Luật sư Lê Công Định
LS Định đã về nhà lúc 10:00 sáng thứ Tư 6/12 trong tình trạng "sức khỏe tốt nhưng hơi gầy".
Ngay trưa cùng ngày, ông Định đã phải tới chính quyền địa phương để trình diện.
Ông Lê Công Định, sinh 1968, bị bắt ngày 13/6/2009 để điều tra vi phạm Điều 88 Bộ Luật hình sự, Tội Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN.
Cùng đợt với ông có ba người khác, là các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung và Lê Thăng Long.
Tội danh của các ông sau bị chuyển sang thành Hoạt động lật đổ, theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự, là tội nặng hơn.
Ngày 20/01/2010, Tòa sơ thẩm TP Hồ Chí Minh đã tuyên án từ 5 năm tới 16 năm tù giam, thêm từ 3 tới 5 năm quản chế tại gia cho các bị cáo trên, trong đó ông Lê Công Định lãnh án 5 năm tù, cộng thêm 3 năm quản chế tại gia.
Tòa phúc thẩm sau đó đã y án trên.
Như vậy, ông đã được ra tù sớm trước hạn hơn một năm.
Vụ bắt và xét xử Lê Công Định đã thu hút sự chú ý đặc biệt của quốc tế vì ông Định có tiếng trong giới luật sư và đã từng đại diện lợi ích cho Việt Nam trong nhiều vụ kiện có yếu tố nước ngoài.
Ông Lê Công Định đã hành nghề lâu năm tại TP HCM. Trước kia, với tư cách luật sư của công ty YKVN, ông đã cùng đối tác là hãng luật White & Case của Mỹ bảo vệ phía Việt Nam trong vụ kiện cá basa tại Hoa Kỳ.
Ông Định cũng từng là Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP HCM nhưng sau bị xóa tên khỏi luật sư đoàn.
Tốt nghiệp Đại học Luật năm 1989, ông Định lấy bằng thạc sỹ luật tại Đại học Tulane University, Hoa Kỳ hồi 2000. Trước đó, ông có một thời gian tu nghiệp tại Pháp.
Luật sư Lê Công Định là chồng của Hoa hậu Việt Nam 1998 Nguyễn Thị Ngọc Khánh.
Tập hợp từ FB + BBC

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Nghị định 73 quy định về "Cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài" có trái luật?

 Nghị định 73 quy định về "Cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài" có trái luật?

Bộ GD&ĐT vừa tiến hành Hội nghị hướng dẫn Nghị định số 73/2012/NĐ-CP về Hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đối với các cơ sở giáo dục.

Học tiếng Anh - Nghị định 73
Các em nhỏ đang học tiếng Anh trong một cơ sở GD của nước ngoài đầu tư
Theo đó, trong việc liên kết đào tạo đối với những cơ sở giáo dục nước ngoài đặt tại Việt Nam, những cơ sở giáo dục này không được tiếp nhận học sinh Việt Nam (không đủ 5 tuổi), những trường này chỉ dành cho trẻ em là người nước ngoài. Cơ sở giáo dục phổ thông (Trường tiểu học, THCS, trường phổ thông, phổ thông có nhiều cấp học) được tiếp nhận học sinh Việt Nam nhưng có điều kiện. Cụ thể, trường tiểu học và THCS không quá 10% tổng số học sinh của trường, trường phổ thông không quá 20%...
Như vậy Trẻ dưới 5 tuổi không được học trường nước ngoài đầu tư; tỷ lệ Phụ huynh không chọn được trường cho con em mình ở những trường nước ngoài đầu tư là rất cao.
Xung quanh NĐ 73, các anh chị và các bạn nghỉ như thế nào về:
Chính phủ không có quyền (và không việc gì phải) quy định thành phần học sinh trong một trường học?
Nghị định 73 vi phạm quyền tự do (chọn trường cho con) của công dân không?
Xem toàn văn Nghị định 73 năm 2012 của CP tại TVPL

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời

Theo Vietnamnet nhạc sĩ Phạm Duy đã qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào hồi 14h30, ngày 27/01/2013, hưởng thọ 93 tuổi.

NHAC SY PHAM DUY VUA MOI QUA DOI O TUOI 93
14h30 chiều 27/1, nhạc sĩ Phạm Duy mất tại bệnh viện 115, TP HCM sau 3 ngày nhập viện cấp cứu. Hiện người nhà ông đang làm thủ tục để chuyển thi hài người nhạc sĩ tài hoa về nhà lo an táng. Chăm sóc ông những ngày cuối đời có con trai Duy Cường luôn túc trực cùng với một vài người thân. Phút lâm chung, ông cũng ra đi trong vòng tay người thân, gia đình và bạn bè.
Ở tuổi 93, nhạc sĩ Phạm Duy ra đi, để lại di sản sáng tác đồ sộ cùng tình yêu trọn đời dành cho âm nhạc.
Nhạc sĩ nổi danh qua đời chỉ hơn một tháng sau khi con trai cả Duy Quang của ông mất ở tuổi 62. Trước đó người nhà giấu tin Duy Quang mất vì sợ Phạm Duy buồn và ảnh hưởng đến sức khỏe vốn đã rất yếu của ông. Nhưng khi biết tin, Phạm Duy không quá đau buồn. Ông tâm sự với nữ danh ca Ánh Tuyết, ông biết con trai bệnh và sẽ không qua khỏi nên đã chuẩn bị sẵn tâm thế để đón nhận. Nhạc sĩ Phạm Duy cảm thấy được an ủi hơn khi con trai mất trong tình cảm yêu thương của khán giả, bạn bè và người thân.
Phạm Duy (sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 tại phố Hàng Cót, Hà Nội). tên thật Phạm Duy Cẩn. Ông xuất thân từ một gia đình văn nghiệp với người cha là  Phạm Duy Tốn - thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20.

Là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc của Việt Nam, Phạm Duy được coi là một trong những nhạc sĩ lớn của nền Tân nhạc với số lượng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại, trong đó có những bài đã trở nên rất quen thuộc với người Việt. Ngoài sáng tác, Phạm Duy còn có nhiều công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị.

Gia đình Phạm Duy có nhiều người nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ thuật, như: cha Phạm Duy Tốn (nhà văn), anh trai Phạm Duy Khiêm (một học giả và là một nhà văn viết tiếng Pháp), vợ là ca sĩ  Thái Hằng, các con: ca sĩ Thái Hiền, ca sĩ Duy Quang (đã mất), ca sĩ Thái Thảo, nhạc sĩ hòa âm Duy Cường....
Thật buồn khi nghe tin ông mất. Nhưng đó là lẽ vô thường. Chúc nhạc sĩ an giấc nghìn thu.
Thưởng thức những bài hát của Nhạc sỷ Phạm Duy: http://danluat.thuvienphapluat.vn/nhac-si-pham-duy-qua-doi-o-tuoi-93-85977.aspx

Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

Tòa xử công khai nhưng... kín!

Tòa xử công khai nhưng... kín!

Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật hành chính đều có điều khoản quy định các phiên tòa được xét xử công khai, mọi công dân đều có quyền tham dự phiên tòa. Thế nhưng thực tế có những phiên tòa đóng kín cửa không lý do.

Tại sao cổng tòa còn đóng cửa với dân trong một phiên xử công khai? Liệu có vi phạm pháp luật Việt Nam?

Xin giới thiệu bài viết của Luật sư Ngô Ngọc Trai, Trưởng văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự.
Hình ảnh thường thấy hằng ngày ở cổng TAND TP Hà Nội: người dân chờ đợi, năn nỉ bảo vệ cho vào tòa - Ảnh: Tâm Lụa
Hình ảnh thường thấy hằng ngày ở cổng TAND TP Hà Nội: người dân chờ đợi, năn nỉ bảo vệ cho vào tòa - Ảnh: Tâm Lụa
Kính gửi anh chị em dân luật,
Liên quan đến tình trạng người dân bị ngăn trở vào tham dự các phiên tòa công khai, là một luật sư thấu nhận nhiều nỗi gian truân cơ cực của người thân bị cáo muốn vào nhìn mặt con em mình mà không được, tôi tiếp tục có ý kiến như sau, xin được chia sẻ cùng mọi người và hãy cùng quan tâm.
Ngày 11/1/2013 tôi có tham dự phiên tòa xét xử tại TAND tối cao 48 Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Lực lượng bảo vệ tại cổng tòa án đã ngăn cản không cho người thân của bị cáo vào tham dự phiên tòa công khai, tôi đã rất vất vả đấu tranh họ mới để cho vào. Như vậy là sai phạm đã diễn ra ngay tại trụ sở TAND tối cao.
Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 18 quy định: Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Căn cứ điều luật trên mọi người dân đều được quyền tham dự phiên tòa. Một người đi đường tránh mưa cũng có quyền tạt vào xem tòa hôm nay xử gì. Những hành vi ngăn cản người dân vào hội trường lắng nghe tòa xử án đều vi phạm pháp luật.
Cũng theo Điều 18, tòa án chỉ tiến hành xử kín trong một số trường hợp cá biệt, việc xử kín được nêu tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định được gửi cho bị cáo và luật sư bào chữa để biết tham dự.
Hầu hết các vụ án đều là xét xử công khai nên người dân đều được quyền qua cổng tòa án vào hội trường xét xử. Lực lượng bảo vệ không được nêu lý do tòa xử kín không cho vào vì chính họ cũng không được biết vụ án nào xử kín (vì họ không phải là người được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử). Trường hợp tòa xử kín, chủ tọa phiên tòa sẽ thông báo và mời những người không được tham dự ra ngoài.
Xem xét kỹ vấn đề tại sao cổng tòa còn đóng cửa với dân thì thấy rằng:
Hiến pháp năm 1992 Điều 8 quy định: Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.
Luật tổ chức tòa án nhân dân Điều 38 quy định: Thẩm phán, Hội thẩm phải tôn trọng nhân dân và chịu sự  giám sát của nhân dân.
Việc người dân tham dự phiên tòa chính là giám sát cán bộ tòa án tuân thủ, thực thi pháp luật. Đây cũng là một phương thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật sinh động quan trọng. Phải chăng vì sợ bị giám sát nên ngăn trở dân?
Lực lượng công an tư pháp và cán bộ tòa án viện cớ này nọ ngáng trở người dân vào hội trường tham dự phiên tòa là vi phạm pháp luật. Phải để nhân dân vào tòa để nhân dân đấu tranh chống quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.
Trách nhiệm thuộc về người đứng đầu tòa là chánh án
Luật tổ chức tòa án nhân dân quy định trách nhiệm tổ chức công tác xét xử thuộc về Chánh án tòa án, nhưng hiện nay không có chế tài xử lý Chánh án khi để xảy ra tình trạng người dân bị ngăn cản vào tham dự phiên tòa.
Tuy nhiên vẫn có hình thức xử lý gián tiếp như sau: Khi tòa án để xảy ra tình trạng người dân bị cấm cản tham dự phiên tòa, chánh án tòa án đã không làm tròn trách nhiệm tổ chức công tác xét xử, do vậy không xứng đáng để tiếp tục được làm chánh án hoặc bổ nhiệm lại làm chánh án. Nếu sai phạm xảy ra tại TAND các địa phương, người dân cần gửi đơn phản ánh tới Chánh án TAND tối cao là người có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án TAND các địa phương.
Đối với sai phạm diễn ra tại TAND tối cao thì cần gửi đơn phản ánh tới Quốc Hội (là cơ quan có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chức danh Chánh án TAND tối cao) và Chủ tịch nước (là cơ quan có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND tối cao)
Hy vọng tương lai sẽ có những chuyển biến
Do nhận thức được sự lạc hậu của Việt Nam trong mảng vấn đề tư pháp xét xử nên năm 2011 Bộ chính trị đã ban hành quyết định 39-QĐ/TW thành lập Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương, trọng tâm trong đó là công tác xét xử.
Theo tôi, Ban chỉ đạo cần lắng nghe hơn nữa tiếng nói phản ánh của giới luật sư về vấn đề cải cách tư pháp. Luật sư là người hàng ngày vận dụng các quy định pháp luật và thấy được sự bất cập của các quy định. Luật sư thường xuyên lắng nghe giải quyết các vấn đề của khách hàng nên thấy được những nhu cầu bức xúc của nhân dân. Những vấn đề của luật sư phản ánh là rất có cơ sở chính xác, đáng được lắng nghe quan tâm. 
Chúng ta hiểu rằng nền tư pháp của nước ta còn rất nhiều khiếm khuyết, nhưng mọi thứ không tự dưng tốt lên được nếu mọi người không chung vai góp sức dựng xây.
Luật sư Ngô Ngọc Trai
Trưởng văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự
Luật sư Trai trực tiếp đăng tại DanLuat: http://danluat.thuvienphapluat.vn/nguoi-than-bi-cao-muon-vao-toa-nhin-mat-con-em-minh-ma-khong-duoc-85240.aspx

Công văn 187/TCT-TNCN hướng dẫn quyết toán thuế TNCN năm 2012

TỔNG CỤC THUẾ vừa ban hành Công văn 187/TCT-TNCN ngày 15 tháng 1 năm 2013 về việc hướng dẫn quyết toán thuế thu nhập cá nhân (TNCN) năm 2012.

CONG VAN 187 - QUYET TOAN THUE TNCN 2012
Xin trích một phần nội dung quan trọng của Công văn 187:
III. Xác định thu nhập chịu thuế
1. Đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công
1.1. Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công được xác định bằng tổng số tiền lương, tiền công, tiền thù lao và các khoản thu nhập khác theo hướng dẫn tại Khoản 2, Mục II, Phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC; Điều 1 Thông tư số 62/2009/TT-BTC; Điều 1 Thông tư số 02/2010/TT-BTC mà người nộp thuế nhận được trong năm 2012.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập từ tiền lương, tiền công cho cá nhân.
Ví dụ 3. Trường hợp tiền lương, tiền công phát sinh trước tháng 12/2012, tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế vào tháng 1/2013 thì tính vào thu nhập chịu thuế của năm 2013 để quyết toán thuế trong năm 2013
1.2. Trường hợp cá nhân nhận thu nhập sau thuế (thu nhập NET) thì việc xác định thu nhập chịu thuế thực hiện theo hướng dẫn tại công văn số 1578/TCT-TNCN ngày 28/4/2009 và công văn số 3565/TCT-TNCN ngày 14/9/2010 của Tổng cục Thuế
2. Đối với thu nhập chuyển nhượng chứng khoán
Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng chứng khoán là tổng thu nhập chịu thuế của các mã chứng khoán chuyển nhượng trong năm.
Thu nhập chịu thuế từng mã chứng khoán được xác định bằng giá bán chứng khoán trừ giá mua và các chi phí liên quan đến chuyển nhượng.
Giá mua của từng mã chứng khoán được xác định như sau:
Giá mua của chứng khoán bán ra
=
Giá vốn đầu kỳ + giá vốn trong kỳ
x Số lượng bán ra
Số lượng chứng khoán tồn đầu kỳ
+
Số lượng mua trong kỳ
Giá vốn trong kỳ = Giá mua + Chi phí mua
IV. Giảm trừ gia cảnh
Về đối tượng giảm trừ gia cảnh và các khoản được giảm trừ để xác định thu nhập tính thuế được thực hiện theo hướng dẫn tại Mục I, Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC; Điều 2, Điều 3 Thông tư số 62/2009/TT-BTC Điều 4 Thông tư số 02/2010/TT-BTC.
1. Cá nhân được giảm trừ cho người phụ thuộc từ tháng có nghĩa vụ nuôi dưỡng và đã đăng ký giảm trừ gia cảnh. Đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam được tính giảm trừ gia cảnh cho bản thân và người phụ thuộc từ tháng 1 đến tháng rời khỏi Việt Nam.
Trường hợp cá nhân trong năm có phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng mà đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc muộn hoặc đến khi quyết toán thuế mới đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc thì khi khấu trừ thuế hàng tháng được tính giảm trừ gia cảnh từ tháng đăng ký giảm trừ; khi quyết toán thuế được tính giảm trừ cho người phụ thuộc từ tháng có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Ví dụ 4.
- Ông A phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng 1 người con vào tháng 1/2012 nhưng đến tháng 3/2012 ông A mới đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc thì từ tháng 3/2012 hàng tháng ông A được tính giảm trừ cho người phụ thuộc khi tạm khấu trừ thuế. Cuối năm khi quyết toán thuế, ông A được tính giảm trừ cho người phụ thuộc từ tháng 1/2012.
- Ông A phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng 1 người con vào tháng 1/2012 nhưng không đăng ký giảm trừ cho người phụ thuộc thì hàng tháng ông A không được tính giảm trừ cho người phụ thuộc khi tạm khấu trừ thuế. Cuối năm khi quyết toán thuế, ông A đăng ký giảm trừ cho người phụ thuộc thì được tính giảm trừ cho người phụ thuộc từ tháng 1/2012.
2. Đối với trường hợp cá nhân chuyển nơi làm việc thì khi nộp đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc cho đơn vị làm việc mới, cá nhân nộp cho đơn vị làm việc mới bản chụp (photo) hồ sơ chứng minh người phụ thuộc có xác nhận của đơn vị làm việc trước đó.
V. Xác định số thuế phải nộp
1. Đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ kinh doanh
Số thuế phải nộp cả năm
=
Thu nhập tính thuế bình quân tháng
x
Thuế suất theo biểu thuế luỹ tiến từng phần tháng
x
12 tháng
2. Đối với cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ kinh doanh bình quân tháng đến mức phải chịu thuế Thu nhập cá nhân ở bậc 1 của Biểu thuế luỹ tiến từng phần (nhỏ hơn hoặc bằng 5 triệu đồng/tháng) thì được miễn thuế 6 tháng cuối năm 2012.
Số thuế được miễn
=
Thuế phải nộp năm 2012 x 6 tháng
12 tháng
Cá nhân kê khai số thuế Thu nhập cá nhân sau khi đã trừ số thuế được miễn vào chỉ tiêu số [32] (Số thuế phát sinh trong kỳ) của Tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân mẫu số 09/KK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư số 28/2011/TT-BTC.
Ví dụ 5: Ông A có thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công năm 2012 là 166,2 triệu đồng.
Năm 2012 ông A có các khoản giảm trừ như sau:
- Giảm trừ cho bản thân 48 triệu đồng (4 triệu đồng x 12 tháng)
- Giảm trừ cho một người phụ thuộc 19,2 triệu đồng (1,6 triệu đồng x 12 tháng)
- Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế 3 triệu đồng.
Thu nhập tính thuế của ông A trong năm 2012 là: 166,2 triệu đồng – ( 48 triệu đồng + 19,2 triệu đồng + 3 triệu đồng ) = 96 triệu đồng.
Thu nhập tính thuế bình quân tháng = 96 triệu đồng : 12 tháng = 8 triệu đồng/tháng
Thuế bình quân 1 tháng phải nộp = (5 triệu đồng x 5%) + (3 triệu đồng x 10%) = 0,55 triệu đồng
Thuế cả năm = 0,55 triệu đồng x 12 tháng = 6,6 triệu đồng
Ví dụ 6: Thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công của ông B trong năm 2012 là 36 triệu đồng.
- Thu nhập tính thuế bình quân tháng của ông B là: 36 triệu đồng : 12 tháng = 3 triệu đồng.
- Số thuế TNCN phải nộp = (3 triệu đồng x 5%) x 12 tháng = 1,8 triệu đồng
- Thuế TNCN được miễn
=
1,8 triệu đồng
x
6 tháng
=
0,9 triệu đồng
12 tháng
- Thuế TNCN phải nộp sau khi trừ tiền thuế được miễn = 1,8 triệu đồng - 0,9 triệu đồng = 0,9 triệu đồng.
3. Đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán
- Số thuế TNCN phải nộp cả năm
=
Thu nhập tính thuế
x
20%
- Số thuế TNCN được giảm
=
Thuế TNCN phải nộp cả năm
x
50%
- Số thuế TNCN còn phải nộp hoặc nộp thừa sau khi giảm
=
Số thuế TNCN phải nộp cả năm
-
Số thuế TNCN được giảm
-
Thuế TNCN đã khấu trừ
Cá nhân kê khai số thuế Thu nhập cá nhân sau khi đã trừ số thuế được giảm vào chỉ tiêu số [26] (Số thuế phải nộp trong kỳ) của Tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân mẫu số 13/KK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư số 28/2011/TT-BTC.
VI. Thủ tục khai quyết toán thuế TNCN
 ... và rất nhiều nội dung quan trọng khác.
Xem toàn văn Công văn 187/TCT TNCN tại đây: Công văn 187 file .doc

Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013

Phần mềm HTKK 3.1.5 phiên bản mới nhất

HTKK 3.1.5 - Phần mềm hổ trợ kê khai thuế phiên bản 3.1.5 mới nhất


TỔNG CỤC THUẾ THÔNG BÁO vừa Nâng cấp Phần mềm hổ trợ kê khai thuế phiên bản 3.1.5 mới nhất ngày 15/01/2013 đáp ứng nghiệp vụ quyết toán thuế TNCN, TNDN năm 2012.

Phần mềm phiên bản HTKK 3.1.5 nâng cấp các tính năng chính sau:
- Nâng cấp chức năng kê khai tờ khai 05/KK-TNCN: Ứng dụng hỗ trợ tổng hợp số thuế TNCN được miễn theo Thông tư số 140/TT-BTC tại phụ lục 27/MT-TNCN nộp kèm tờ khai 05/KK-TNCN từ số liệu kê khai trên bảng kê 05A/BK-TNCN.

- Nâng cấp chức năng kê khai tờ khai 09/KK-TNCN: Ứng dụng hỗ trợ tổng hợp số thuế TNCN được miễn theo Thông tư số 140/TT-BTC tại phụ lục 26/MT-TNCN nộp kèm tờ khai 09/KK-TNCN từ số liệu kê khai trên tờ khai 09/KK-TNCN.

- Riêng đối với ứng dụng HTKK, iHTKK:

 + Bổ sung thêm mẫu biểu phụ lục Thông báo lựa chọn phương án hưởng ưu đãi thuế theo quy định tại Thông tư số 199/2012/TT-BTC mẫu 01/TNDN nộp kèm tờ khai quyết toán thuế TNDN mẫu 03/TNDN.

 + Nâng cấp chức năng kê khai tờ khai thuế TNDN từ chuyển nhượng bất động sản mẫu 02/TNDN: Thay đổi tỷ lệ nộp thuế TNDN trên doanh thu theo tiến độ thu tiền từ 2% xuống 1% theo Thông tư số 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012.

- Đối với việc gửi/nhận tờ khai quyết toán thuế TNCN qua trang http://tncnonline.com.vn: Hỗ trợ gửi/nhận dữ liệu tờ khai quyết toán thuế TNCN với cả 2 định dạng excel 2003 và 2007. Tổng cục Thuế sẽ tạm dừng hệ thống website http://tncnonline.com.vn trong khoảng thời gian từ 16h đến 18h ngày 15/1/2013 để tiến hành nâng cấp.

Bắt đầu từ ngày 16/1/2013, khi kê khai tờ khai thuế có áp dụng công nghệ mã vạch 2 chiều, tổ chức cá nhân nộp thuế sẽ sử dụng các mẫu biểu kê khai tại ứng dụng HTKK 3.1.5, phần mềm QTTNCN 3.0.2 và ứng dụng iHTKK 2.2.9 thay cho các phiên bản trước đây.

Tổng hợp Thông tin chính thức từ TỔNG CỤC THUẾ.

Download phần mềm HTKK 3.1.4 tại đây: HTKK 3.1.5 - Phần mềm hổ trợ kê khai thuế phiên bản 3.1.5 mới nhất