Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012

Ngân hàng ACB "phá sản" sau vụ 'bầu' Kiên bị bắt ?

Ngân hàng ACB phá sản sau vụ 'bầu' Kiên bị bắt ?

Kể từ vụ tin đồn thất thiệt “ Tổng giám đốc ACB bỏ trốn tháng 10/2003, tới nay, một lần nữa, ACB lại đối diện với một khủng hoảng sau khi ông bầu Nguyễn Đức Kiên bị bắt ngày 20/8.
Tổng hợp một số thông tin liên quan đến ngân hàng ACB:
Chiều 20/8, ông Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tạm giữ để điều tra về những sai phạm liên quan đến hoạt động kinh tế.
Việc tạm giam ông Kiên có phù hợp quy định của pháp luật nếu dựa vào Điều 159 Bộ luật hình sự và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành?
Ngay trong tối ngày 20/8 khi có tin bầu Kiên bị bắt giữ, toàn thể ban lãnh đạo của ACB đã họp để thống nhất những kịch bản cụ thể để kiểm soát tình hình. Theo đó, ban lãnh đạo đề ra 5 kịch bản, gồm các mức độ bình thường, hơi đông, hỗn độn, khẩn cấp và khủng hoảng, đồng thời đưa ra 5 phương án để giải quyết.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình xác nhận Nguyễn Đức Kiên bị bắt không liên quan tới ACB và các ngân hàng khác. Từ phía ngân hàng ACB cũng đã xác nhận nguyên phó chủ tịch Nguyễn Đức Kiên đang là sở hữu dưới 5% cổ phần, không phải cổ đông lớn, thuộc diện không phải công bố thông tin. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước đã có ngay động thái  lên phương án dự phòng để xử lý thanh khoản khi cần thiết. Trong hai ngày 21 và 22/8, Ngân hàng Nhà nước liên tục phát đi thông điệp sẽ hỗ trợ thanh khoản cho ACB.
Tiếp đó, chiều 22-8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã có quyết định khởi tố ông Lý Xuân Hải (47 tuổi), tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB), về tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Ngân hàng Á Châu trong ngày 22/8 đã tạm thời cử Phó tổng giám đốc Đỗ Minh Toàn điều hành thay cho Tổng giám đốc Lý Xuân Hải đang phải hợp tác với cơ quan điều tra sau vụ bắt giam ông Nguyễn Đức Kiên. Tuy nhiên, trong khi đó, Chủ tịch Hội đồng quản trị Trần Xuân Giá đang ở nước ngoài và nói rằng "không nắm rõ tình hình ở nhà".
Sự kiện Bầu Kiên bị bắt đã làm cho cổ phiếu của ngân hàng tụt dốc thê thảm. Theo ghi nhận của Vietstock: Sau 2 ngày bầu Kiên bị bắt, thị trường chứng khoán vẫn đứng trước áp lực bán dữ dội, đặc biệt tại sàn HNX với việc ACB giảm kịch sàn. Thậm chí, ngay cả các mã ngân hàng không liên quan đến ACB cũng quay đầu giảm trở lại như MBB, VCB và CTG.
Sáng ngày 23/8, Phó tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) Nguyễn Thanh Toại cho hay, chỉ trong hai ngày (21 và 22/8), khách hàng đã rút tiền khỏi ACB khoảng 8.000 tỷ đồng, trong đó ngày 21/8 số tiền khách hàng rút là 3.000 tỷ và ngày 22/8 là 5.000 tỷ đồng. Số lượng người đến rút tiền tại hội sở ACB khá đông, có người không thực hiện được giao dịch đã phải đợi đến đầu giờ mở cửa giao dịch buổi chiều.
Thông tin tập hợp từ Internet.

Thứ Ba, 21 tháng 8, 2012

Ông bầu Nguyễn Đức Kiên bị bắt?

Chiều 20/8, ông Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tạm giữ để điều tra về những sai phạm liên quan đến hoạt động kinh tế.
Tin Bầu Kiên bị bắt là có thật, theo xác nhân của Tổng cục cảnh sát phòng chống tội phạm Bộ Công An.
Ông Nguyễn Đức Kiên bị bắt tối 20-8 để phục vụ công tác điều tra sai phạm trong kinh doanh.

Ông bầu Nguyễn Đức Kiên đã bị bắt!

Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

Nghị quyết 41/NQ-CP - xây dựng 8 dự án Luật năm 2012

Nghị quyết số 41/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15/08/2012 về công tác xây dựng pháp luật.

Theo Nghị quyết 41, Chính phủ giao các Bộ hoàn chỉnh 8 dự án Luật:
  1. Dự án Luật Đất đai (sửa đổi);
  2. dự án Luật Giáo dục quốc phòng-an ninh;
  3. dự án Luật Thủ đô;
  4. dự án Luật Hộ tịch;
  5. dự án Luật Việc làm;
  6. dự án Luật Hoà giải cơ sở;
  7. dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); 
  8. dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi).
Quy định minh bạch, rõ ràng hơn các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Theo Nghị quyết phiên họp này, Chính phủ khẳng định Luật Đất đai 2003 được sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất; quy định minh bạch, rõ ràng hơn các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, khắc phục các tồn tại, bất cập đang bộc lộ trên thực tế, nhất là khiếu kiện liên quan đến đất đai.
Bên cạnh đó, bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định của Luật Đất đai với các luật khác có liên quan, giữ vững nguyên tắc pháp chế và tính nghiêm minh của pháp luật về đất đai; bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước về đất đai từ trung ương đến cơ sở, kết hợp hài hòa lợi ích của các bên liên quan; hoàn thiện cơ chế và những giải pháp để tài nguyên đất trở thành nguồn lực phục vụ hiệu quả quá trình phát triển đất nước.
Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật Đất đai (sửa đổi), báo cáo Chính phủ tại phiên họp tháng 8/2012 trước khi trình Quốc hội.
Luật Thủ đô chỉ quy định những nội dung mang tính đặc thù của Thủ đô
Về dự án Luật Thủ đô, Chính phủ khẳng định Luật Thủ đô được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý để phát huy tối đa các nguồn lực cho việc xây dựng và phát triển Thủ đô theo hướng văn minh, hiện đại, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh Thủ đô ban hành năm 2000.
Về phạm vi điều chỉnh, Chính phủ cho rằng Luật Thủ đô chỉ quy định những nội dung quan trọng về xây dựng, phát triển Thủ đô những chưa được quy định ở các luật khác hoặc đã có quy định nhưng chưa phù hợp với đặc thù của Thủ đô.
Những nội dung có tính phổ biến, không phải đặc thù thì thống nhất áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Phù hợp mô hình đăng ký hộ tịch một cấp
Nghị quyết nêu rõ, Luật Hộ tịch được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, có hiệu lực cao cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, công khai, minh bạch, tạo thuận tiện cho cá nhân, tổ chức có yêu cầu đăng ký hộ tịch.
Bên cạnh đó, chuyên nghiệp hóa và chuẩn hóa công chức thực hiện công tác đăng ký hộ tịch thông qua việc xây dựng chức danh Hộ tịch viên để phù hợp mới mô hình đăng ký hộ tịch một cấp.
Luật Việc làm cần cụ thể về nội dung, lộ trình thực hiện phát triển kỹ năng nghề
Luật Việc làm được xây dựng nhằm góp phần hoàn thiện thị trường lao động, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Do vậy, Chính phủ yêu cầu cần phải quy định cụ thể về nội dung và lộ trình thực hiện phát triển kỹ năng nghề trong Luật Việc làm để bảo đảm hiệu quả và tính khả thi của chính sách này trên thực tế.
Chính phủ yêu cầu làm rõ mối liên hệ giữa Luật Việc làm với các Luật Dạy nghề, Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ Luật lao động về một số nội dung có liên quan đến phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Nâng cao hiệu quả kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập
Luật Phòng, chống tham nhũng được sửa đổi nhằm củng cố, nâng cao hiệu quả các quy định về phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng; tăng cường công khai, minh bạch trong từng lĩnh vực quản lý; nâng cao hiệu quả việc thực hiện kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập; cụ thể hóa về trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Dự án Luật này dự kiến sẽ được hoàn chỉnh, báo cáo Chính phủ tại phiên họp tháng 8/2012.
Tăng cường thu hút đầu tư của toàn xã hội cho khoa học và công nghệ
Luật Khoa học và Công nghệ được sửa đổi, điều chỉnh nhằm góp phần hoàn thiện thể chế; tạo sự thống nhất, đồng bộ các văn bản pháp luật về khoa học, công nghệ tạo nền tảng pháp lý để giải quyết những bất cập, vướng mắc hiện nay, tăng cường thu hút đầu tư của toàn xã hội cho khoa học và công nghệ; tạo cơ chế linh hoạt để khuyến khích công tác nghiên cứu, nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học, công nghệ vào cuộc sống.
Chính phủ lưu ý Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp thu các nội dung của Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đồng thời xác định nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới cơ chế tài chính trong lĩnh vực khoa học, công nghệ phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Ngân sách.
Mọi công dân đều được phổ biến, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh
Chính phủ thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Giáo dục quốc phòng - an ninh, dự luật này được xây dựng nhằm hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với việc củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Mọi công dân đều được phổ biến, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh. Chính phủ quy định đối tượng cụ thể bồi dưỡng quốc phòng - an ninh căn cứ vào tình hình, khả năng của đất nước và từng địa phương.
Sau khi tiếp thu, hoàn chỉnh dự án Luật này, bảo đảm tính khả thi, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, ký Tờ trình Quốc hội dự án Luật này.
Tạo chuyển biến, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với công tác hòa giải cơ sở
Luật Hòa giải cơ sở được ban hành sẽ hoàn thiện các chế định pháp lý về công tác hòa giải cơ sở; tạo chuyển biến và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với công tác hòa giải ở cơ sở.
Bộ Tư pháp được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với V��n phòng Chính phủ, và các Bộ liên quan tiếp thu ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật trên. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, ký Tờ trình Quốc hội dự án Luật này.
Hoàng Diên
Theo chinhphu.vn
Download - tải nghị quyết 41 tại đây: Nghị quyết 41/NQ-CP - xây dựng 8 dự án Luật năm 2012

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Công văn 2750 - lương tối thiểu vùng 2013

Sẽ tăng lương tối thiểu vùng vào năm 2013

Mức lương tối thiểu vùng 2013 sẽ được điều chỉnh tăng theo hướng đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao động và doanh nghiệp. Đó là kế hoạch điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng cho người lao động trong các loại hình doanh nghiệp năm 2013 đang được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội lấy ý kiến tại Công văn 2750/LĐTBXH-LĐTL, ban hành 09/8/2012 vừa qua.
Theo đó, có 2 phương án điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng áp dụng trong doanh nghiệp năm 2013.
Phương án 1: Điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng theo lộ trình đã trình Ban chấp hành Trung ương, mức điều chỉnh tăng bình quân 4 vùng khoảng 36%, cụ thể: Vùng 1: Mức 2.700.000 đồng/tháng; Vùng 2: Mức 2.400.000 đồng/tháng; Vùng 3: Mức 2.130.000 đồng/tháng; Vùng 4: Mức 1.930.000 đồng/tháng.
Phương án 2: Căn cứ tình hình thực tế sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp năm 2012 gặp nhiều khó khăn, điều chỉnh tiền lương tối thiểu bằng khoảng 90% so với phương án 1, mức điều chỉnh tăng bình quân 4 vùng còn khoảng 25%, cao nhất là vùng 1 với mức 2.500.000 đồng/tháng.
Mức lương cơ bản vùng của 2 phương án trên đưa ra đều tăng so với mức lương cơ bản vùng áp dụng từ 01/10/2011 đến hết 31/12/2012 từ 500.000 – 700.000 đồng/tháng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn vùng 1, đạt mức nhu cầu tối thiểu. Tuy nhiên Phương án 1 sẽ gây bất lợi cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2012.
Chính phủ sẽ công bố điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trong doanh nghiệp vào tháng 10/2012 và thực hiện từ ngày 01/1/2013.

Download - tải công văn 2750 file .doc tại đây: Công văn 2750/LĐTBXH-LĐTL - lương tối thiểu vùng 2013

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

Nghị định 60/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành Nghị Quyết 29/2012/QH13

Ngày 30/07/2012 Chính phủ ban hành Nghị Định số 60/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành nghị quyết số 29/2012/QH13 về ban hành 1 số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân.

Tải - download nghị định 60/2012 trực tiếp tại đây:

Nghị định 60/2012/NĐ-CP : Quy định chi tiết thi hành Nghị Quyết số 29/2012/QH13

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Tội phạm Đặng Trần Hoài là những kẻ yếu đuối ?

Tội phạm là những kẻ yếu đuối

Luật sư Ngô Ngọc Trai
LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN XẢY RA TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY, HÀ NỘI
Theo thông tin Báo điện tử Giáo dục Việt Nam nhanh chóng thu thập được, kẻ thủ ác trong vụ trọng án xảy ra tại thị xã Sơn Tây là Đặng Trần Hoài, sinh năm 1986, ở  Hà Đông, Hà Nội. Tên Hoài đã thực hiện hành vi hiếp dâm một cháu bé 9 tuổi và giết hại cháu bé 4 tuổi, cả hai là con gái của anh Khuất Duy Hiền trú tại xã Cổ Đông, thị xã Sơn Tây (Hà Nội).
Vụ án này tiếp tục là hồi chuông giục giã cho thấy sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Khi một vụ trọng án xảy ra những tưởng nghiêm trọng đến thế thì thôi, tội ác đến đó cũng là tận cùng rồi, nhưng sau đó thì sao? Tội ác vẫn tái diễn xuất hiện trên các báo, hình như xã hội không rút ra được bài học gì hoặc không chuyển được những bài học thành hành động cụ thể để đưa đến thay đổi.
Qua vụ án này người viết xin đưa ra một số nhận định trao đổi cùng bạn đọc như sau:
Tội phạm thực chất là những kẻ yếu đuối
Nhiều người cho rằng tội phạm là những kẻ to gan lớn mật, không run sợ khi thực hiện tội ác, có bản lĩnh khác thường, sẵn sàng chấp nhận cái chết. Đây là suy nghĩ cần loại bỏ bởi nó rất nguy hại đưa dẫn đến tâm lý phạm tội, tâm lý coi thường mạng sống của chính mình và người khác. Vì suy nghĩ như thế nên trong thực tế có hiện tượng phạm tội để chứng tỏ bản lĩnh, phạm tội để lấy số má trong giới giang hồ. Nhiều thanh thiếu niên khi thấy được thông tin tội phạm thì cười cợt tôn vinh kẻ phạm tội là đại ca máu lạnh, tự tạo suy nghĩ dám phạm tội, coi thường mạng sống, coi thường cái chết.
Đây là tâm lý không tốt chút nào trong việc tôn trọng pháp luật, tôn trọng các chuẩn mực xã hội.
Kẻ phạm tội thực ra là người yếu đuối khi không đủ khả năng, không đủ bản lĩnh dám sống theo các khuôn thước đời sống cộng đồng. Kẻ tội phạm yếu đuối vì không khống chế được dục vọng bản thân, để cho dục vọng lôi kéo xâm phạm tới các chuẩn mực giá trị đạo đức.
Cuộc sống luôn có khó khăn thử thách, đó là vấn đề của mỗi người, của tất cả mọi người không phải chỉ riêng kẻ phạm tội mới gặp vướng mắc. Nhưng chỉ người mạnh mẽ mới vượt thoát lên trên những rắc rối mà vẫn tôn trọng các chuẩn mực giá trị, tôn trọng người khác, tôn trọng luật pháp.
Kẻ phạm tội khi gặp thử thách thì yếu đuối không vượt lên được mà chui ngang, đục bỏ những giá trị đời sống, chúng yếu đuối đến nỗi không thể hành xử một cách bình thường như bao người khác.
Trong vụ án này kẻ tội phạm đã để cho dục vọng bản năng vượt thoát khỏi lý trí, lấn át cả lý trí, một kẻ không khống chế được dục vọng bản năng thì không được coi là mạnh mẽ.
Cha anh ta khi trong chiến tranh chiến đấu với kẻ thù, chứng kiến va chạm với những điều khủng khiếp. Nhưng khi trở về với đời thường thì sống tuân theo luật pháp, vẫn tôn trọng các khuôn thước chuẩn mực đạo đức xã hội. Đó mới thực sự là những người mạnh mẽ. Chỉ những người vượt thoát lên khỏi những khó khăn mà vẫn tôn trọng luật pháp, tôn trọng các khuôn thước chuẩn mực, đó mới là người mạnh mẽ.
Bằng các phương tiện truyền thông, thông qua đời sống văn hóa, chúng ta cần làm rõ và mô tả chân thực chính xác tội phạm là những kẻ yếu đuối, không có gì ghê gớm đáng nể ở một tên tội phạm. Tội phạm cần ở đúng vị trí xứng đáng dành cho chúng, đó là những kẻ yếu đuối, những kẻ thấp kém vì không thể hành xử một cách bình thường như những người bình thường.
Tội phạm cũng là nạn nhân
Mỗi vụ án đặt ra vấn đề trách nhiệm của toàn xã hội. Không được suy nghĩ đơn giản trừng trị kẻ phạm tội là xong, như thế thực chất là lảng tráng rũ bỏ trách nhiệm.
Trừng trị kẻ tội phạm không phải là vấn đề quan trọng nhất, quan trọng nhất là đánh giá tổng thể tìm ra căn nguyên của vấn đề để có hướng tháo gỡ ngăn ngừa tội phạm, việc này khó nhưng không thể không làm, không được tránh việc khó.
Chúng ta cần nhìn một loạt các vụ trọng án gần đây như một vấn nạn, vấn nạn này có nguyên nhân gắn liền với các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội.
Tội phạm là những kẻ bị bế tắc, hành vi phạm tội chính là sự khai thông bế tắc, nhưng thay vì bằng con đường hợp pháp, kẻ phạm tội lại thực hiện giải pháp bất hợp pháp.
Tên tội phạm trong vụ án này 26 tuổi, vợ hắn mới sinh con được 10 ngày, mục đích phạm tội của hắn là hiếp dâm, phải chăng ở thời điểm phạm tội hắn đã bị nhục dục hun đúc lôi kéo?
Pháp luật hiện tại xác định việc mua bán dâm là không hợp pháp. Do vậy nếu tuân thủ luật pháp thì khi vợ mang bầu mà có nhu cầu tình dục thì cũng không được đi mua bán dâm. Quy định như vậy liệu có đảm bảo yếu tố khoa học pháp lý, khoa học tâm lý hay không?
Khi bị thúc giục bởi nhục dục bản năng, kẻ tội phạm có thể lựa chọn giữa việc mua bán dâm và hiếp dâm. Quy định hiện tại, mua dâm hay hiếp dâm đều là phạm pháp, đều có mặc cảm tội lỗi.
Nếu pháp luật thay đổi, cho việc mua bán dâm là hợp pháp, thì những kẻ như tên tội phạm trong vụ án này sẽ có cách thức để giải thoát dục vọng bản năng mà không bị mặc cảm tội lỗi. Hắn sẽ được lựa chọn giữa phạm pháp và không phạm pháp, thay vì ở giữa hai hình thức phạm pháp như hiện thời.
Trách nhiệm của chính quyền
Rất nhiều vụ trọng án xảy ra, nhưng hình như đó là câu chuyện của báo chí, là vấn đề riêng của gia đình nạn nhân, các cơ quan tố tụng. Đúng ra các cấp chính quyền phải có trách nhiệm chính, vì rằng khi hoạch định đường lối phát triển đúng đắn, đời sống vật chất tinh thần người dân được nâng cao thì cũng sẽ giúp ngăn ngừa tội phạm.
Người viết bài này rất trân trọng việc làm của ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư thành ủy Đà Nẵng. Khi ngày 12/7/2012 ông Nguyễn Bá Thanh đã tập hợp 176 thanh thiếu niên chậm tiến trên địa bàn thành phố, đưa các em này đi thăm trại giam, nói chuyện tại hội trường. Ông Thanh đã yêu cầu các em phải từ bỏ lối sống phạm pháp, phải nỗ lực học tập rèn luyện trở thành công dân có ích cho xã hội.
Việc làm của ông đã bộc lộ triết lý rằng: Cần giáo dục giúp đỡ để ngăn con người phạm tội, thay vì đưa đẩy họ đến con đường phạm tội rồi lại ra tay trừng trị.
Rõ ràng là khi đời sống kinh tế văn hóa tốt thì tội phạm giảm. Khi tội phạm nhiều đó là chứng tỏ kinh tế văn hóa xuống cấp.
Cuối cùng: Vụ án xảy ra tại thị xã Sơn Tây là rất thương tâm, kẻ thủ ác rồi sẽ bị trừng phạt, để ngăn ngừa các vụ việc tương tự mỗi chúng ta phải có trách nhiệm trong việc tôn trọng pháp luật. Vi phạm điều nhỏ rồi sẽ vi phạm điều lớn, từ đó tạo tâm lý coi thường pháp luật. Do vậy từ những việc nhỏ chúng ta cần phải tôn trọng pháp luật.
Luật sư Ngô Ngọc Trai
 Nguồn: Tội phạm là những kẻ yếu đuối

Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012

Quyết định 31/2012/QĐ-TTg ban hành Quy chế thực hiện Công ước của LHQ về chống tham nhũng

Quyết định 31/2012/QĐ-TTg ban hành Quy chế thực hiện Công ước của LHQ về chống tham nhũng

Tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Công ước của LHQ về chống tham nhũng.

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số  31/2012/QĐ-TTg ngày 26 tháng 7 năm 2012 về việc ban hành Quy chế phối hợp thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
Quyết định 31/2012 của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm .
Download toàn văn Quyết định 31 tại đây:

Quyết định 31/2012/QĐ-TTg ban hành Quy chế thực hiện Công ước của LHQ về chống tham nhũng

CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM NHŨNG

Việt Nam phê chuẩn Công ước về chống tham nhũng

Ngày 30/06/2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký phê chuẩn công ước của Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng, đưa Việt Nam tham gia vào cộng đồng gần 140 thành viên chính thức đã phê chuẩn hoặc gia nhập công ước của LHQ về chống tham nhũng. Bằng việc phê chuẩn công ước này, Việt Nam đã tham gia vào khuôn khổ pháp lý toàn cầu cho sự hợp tác trong phòng, chống tham nhũng.

Toàn văn Công ước của LHQ về chống tham nhũng download tại đây: CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM NHŨNG

Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

Nghị định 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật chứng khoán 2012

Chính phủ ban hành Nghị định số  58/2012/NĐ-CP  ngày 20/07/2012 : Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán.

Download - tải toàn văn nghị định 58 tại đây: Nghị định số 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật chứng khoán 2012

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Giết động vật quý hiếm, giết voọc quý, có thể đối mặt với mức án 7 năm tù?

Cư dân mạng trong nước hết sức phẫn nộ trước loạt ảnh mô tả giết hại động vật hoang dã một cách dã man. Quân nhân Nguyễn Văn Quang (20 tuổi, đang thực hiện nghĩa vụ quân sự tại Đại đội 3, Trung đoàn 7, Quân đoàn 3 (đóng tại thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai)) tung loạt ảnh giết voọc chà vá chân xám lên facebook của mình .
Nhiều luật sư và chuyên gia trong ngành cho rằng, có nhiều dấu hiệu hình sự trong vụ giết voọc quý, kẻ giết voọc quý có thể đối mặt với mức án 7 năm tù. Những người chứng kiến, người chụp ảnh cũng phải xử lý tùy theo mức độ vi phạm.
Điều 190 của Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 có quy định rất rõ về tội Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật. Theo đó người nào săn bắt, giết, vận chuyển nuôi nhốt, buôn bán... trái phép động vật thuộc danh mục nguy cấp quý hiếm cần được bảo vệ thì sẽ bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt từ 6 tháng đến 3 năm.
Trong trường hợp bị kết luận là đã có hành vi hành hạ con voọc trước khi giết bằng việc hun khói, nhấn nước sôi, cho hút thuốc... và còn đăng tải trên Facebook thì bị xử lý theo khoản 2, điều 190 BLHS. Cụ thể là đã phạm tội có tổ chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn... gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nên bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ 2 năm cho đến 7 năm tù.

Điều 190. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
  1. Người nào săn bắt, giết, vận chuyển, nuôi, nhốt, buôn bán trái phép động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của loài động vật đó, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Sử dụng công cụ hoặc phương tiện săn bắt bị cấm; d) Săn bắt trong khu vực bị cấm hoặc vào thời gian bị cấm; đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
  3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự, quân nhân Nguyễn Văn Quang sẽ phải đối mặt với mức án từ 2 - 7 năm tù?
Luật sư, Luật gia và thành viên DanLuat nhận định như thế nào về vụ việc trên?

Giết động vật quý hiếm, giết voọc quý, có thể đối mặt với mức án 7 năm tù?

Thứ Tư, 4 tháng 7, 2012

Luật Biển Việt Nam 2012

Download - tải toàn văn LUẬT BIỂN VIỆT NAM 2012 trực tiếp tại đây: Luật Biển Việt Nam 2012

“Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII tại phiên họp cuối ngày 21-6-2012 của kỳ họp thứ ba đã bỏ phiếu thông qua Luật Biển với số phiếu tán thành là 495/496”.

“Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam”. (Điều 1, Luật Biển Việt Nam năm 2012)

Đó là một số thông tin của Báo PL TPHCM cho rằng, không nghi ngờ gì nữa Việt Nam đã có Luật Biển (Báo PL TPHCM ngày 22&24/6/2012).

Thế nhưng, cho đến bây giờ thì rất nhiều người dân trong chín mươi triệu dân Việt chẳng biết nội dung cái Luật biển đã được thông qua đó là gì. Bởi vì, không như các dự luật khác, người ta thấy, Luật Biển Việt Nam được soạn thảo, thông qua một cách âm thầm, rất nhiều người dân chẳng biết nội dung dự thảo của đạo luật này vì nó chẳng được công khai trên trang thông tin điện tử của Chính phủ như thường lệ. 
Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày luật biển được Quốc hội thông qua (21/6) thì Chủ tịch nước sẽ (phải) công bố Luật Biển Việt Nam cho toàn dân biết (chậm nhất vào ngày 6/7/2012). Thế nên, với đạo luật đã được thông qua thì kiểu gì dân cũng được xem thôi, chẳng lẽ lại đem dấu.
Tuy nhiên, biết đâu sau 2 ngày nữa, vào lúc hết thời hạn chậm nhất phải công bố cho toàn dân biết, chúng ta sẽ được nhìn thấy luật biển chính xác, thực sự và tương tự như văn bản dưới này: 
 "CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG 
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh 
Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo. 
Điều 2. Áp dụng pháp luật
1. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này. 
2. Trường hợp quy định của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó. 
Điều 3. Giải thích từ ngữ 
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 
1. Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. 
2. Vùng biển quốc tế là tất cả các vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các quốc gia khác, nhưng không bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. 
3. Tàu thuyền là phương tiện hoạt động trên mặt nước hoặc dưới mặt nước bao gồm tàu, thuyền và các phương tiện khác có động cơ hoặc không có động cơ. 
4. Tàu quân sự là tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài thể hiện rõ quốc tịch của quốc gia đó, do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách sĩ quan hay trong một tài liệu tương đương; được điều hành bởi thuỷ thủ đoàn hoạt động theo các điều lệnh kỷ luật quân sự. 
5. Tàu thuyền công vụ là tàu thuyền chuyên dùng để thực hiện các công vụ của Nhà nước không vì mục đích thương mại. 
6. Tài nguyên bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật thuộc khối nước, đáy và lòng đất dưới đáy biển. 
7. Đường đẳng sâu là đường nối liền các điểm có cùng độ sâu ở biển. 
Điều 4. Nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển 
1. Quản lý và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế khác mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 
2. Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển
3. Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế. 
Điều 5. Chính sách quản lý và bảo vệ biển 
1. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển. 
2. Xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng, khai thác, bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo một cách bền vững phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh. 
3. Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sử dụng, khai thác, phát triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển bền vững các vùng biển phù hợp với điều kiện của từng vùng biển và bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; tăng cường thông tin, phổ biến về tiềm năng, chính sách, pháp luật về biển. 
4. Khuyến khích và bảo vệ hoạt động thủy sản của ngư dân trên các vùng biển, bảo hộ hoạt động của tổ chức, công dân Việt Nam ngoài các vùng biển Việt Nam phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, pháp luật quốc tế, pháp luật của quốc gia ven biển có liên quan. 
5. Đầu tư bảo đảm hoạt động của các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển, nâng cấp cơ sở hậu cần phục vụ cho các hoạt động trên biển, đảo và quần đảo, phát triển nguồn nhân lực biển. 
6. Thực hiện các chính sách ưu tiên đối với nhân dân sinh sống trên các đảo và quần đảo; chế độ ưu đãi đối với các lực lượng tham gia quản lý và bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo. 
Điều 6. Hợp tác quốc tế về biển 
1. Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi. 
2. Nội dung hợp tác quốc tế về biển bao gồm: 
a) Điều tra, nghiên cứu biển, đại dương; ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ; 
b) Ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống và cảnh báo thiên tai; 
c) Bảo vệ đa dạng sinh học biển, hệ sinh thái biển; 
d) Phòng chống ô nhiễm môi trường biển, xử lý chất thải từ hoạt động kinh tế biển, ứng phó sự cố tràn dầu; 
đ) Tìm kiếm, cứu nạn trên biển; 
e) Phòng, chống tội phạm trên biển; 
g) Khai thác bền vững tài nguyên biển, phát triển du lịch biển. 
Điều 7. Quản lý nhà nước về biển 
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biển trong phạm vi cả nước. 
2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về biển. 
CHƯƠNG II: VÙNG BIỂN VIỆT NAM 
Điều 8. Xác định đường cơ sở 
Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở những khu vực chưa có đường cơ sở sau khi được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. 
Điều 9. Nội thuỷ 
Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. 
Điều 10. Chế độ pháp lý của nội thuỷ 
Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền. 
Điều 11. Lãnh hải 
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam. 
Điều 12. Chế độ pháp lý của lãnh hải 
1. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. 
2. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. 
3. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 
4. Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 
5. Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam. 
Điều 13. Vùng tiếp giáp lãnh hải 
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. 
Điều 14. Chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải 
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền khác quy định tại Điều 16 của Luật này đối với vùng tiếp giáp lãnh hải. 
2. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam. 
Điều 15. Vùng đặc quyền kinh tế 
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. 
Điều 16. Chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế 
1. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện: 
a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; 
b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; 
c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế. 
2. Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. 
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. 
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan. 
4. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này. 
Điều 17. Thềm lục địa 
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. 
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét. 
Điều 18. Chế độ pháp lý của thềm lục địa 
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên. 
2. Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam. 
3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa. 
4. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. 
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. 
5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan. 
Điều 19. Đảo, quần đảo 
1. Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. 
Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau. 
2. Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. 
Điều 20. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo, quần đảo 
1. Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. 
2. Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. 
3. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được xác định theo quy định tại các điều 9, 11, 13, 15 và 17 của Luật này và được thể hiện bằng hải đồ, bản kê toạ độ địa lý do Chính phủ công bố. 
Điều 21. Chế độ pháp lý của đảo, quần đảo 
1. Nhà nước thực hiện chủ quyền trên đảo, quần đảo của Việt Nam. 
2. Chế độ pháp lý đối với vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được thực hiện theo quy định tại các điều 10, 12, 14, 16 và 18 của Luật này. 
CHƯƠNG III: HOẠT ĐỘNG TRONG VÙNG BIỂN VIỆT NAM 
Điều 22. Quy định chung 
1. Tổ chức, cá nhân hoạt động trong vùng biển Việt Nam phải tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia của Việt Nam, tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan. 
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của tàu thuyền, tổ chức, cá nhân hoạt động trong vùng biển Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan. 
Điều 23. Đi qua không gây hại trong lãnh hải 
1. Đi qua lãnh hải là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhằm một trong các mục đích sau: 
a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy Việt Nam, không neo đậu lại trong một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt Nam; 
b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy Việt Nam hay đậu lại hoặc rời khỏi một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt Nam. 
2. Việc đi qua lãnh hải phải liên tục và nhanh chóng, trừ trường hợp gặp sự cố hàng hải, sự cố bất khả kháng, gặp nạn hoặc vì mục ��ích phải cứu giúp người, tàu thuyền hay tàu bay đang gặp nạn. 
3. Việc đi qua không gây hại trong lãnh hải không được làm phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn trên biển. Việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam bị coi là gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn xã hội nếu tàu thuyền đó tiến hành bất kỳ một hành vi nào sau đây: 
a) Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; 
b) Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc; 
c) Luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào; 
d) Thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam; 
đ) Tuyên truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam; 
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện bay lên tàu thuyền; 
g) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên tàu thuyền; 
h) Bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc xuất nhập cảnh; 
i) Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển; 
k) Đánh bắt hải sản trái phép; 
l) Nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép; 
m) Làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thông tin liên lạc hoặc của thiết bị hay công trình khác của Việt Nam; 
n) Tiến hành hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua. 
Điều 24. Nghĩa vụ khi thực hiện quyền đi qua không gây hại
1. Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về nội dung sau đây: 
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông; 
b) Bảo vệ thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải, thiết bị hay công trình khác; 
c) Bảo vệ đường dây cáp và ống dẫn; 
d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; 
đ) Hoạt động đánh bắt, khai thác và nuôi trồng hải sản; 
e) Gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển; 
g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn; 
h) Hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh. 
2. Thuyền trưởng tàu thuyền nước ngoài chạy bằng năng lượng hạt nhân hoặc chuyên chở chất phóng xạ, chất độc hại hoặc nguy hiểm, khi đi trong lãnh hải Việt Nam có nghĩa vụ sau đây: 
a) Mang đầy đủ tài liệu kỹ thuật liên quan tới tàu thuyền và hàng hóa trên tàu, tài liệu về bảo hiểm dân sự bắt buộc; 
b) Sẵn sàng cung cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam mọi tài liệu liên quan đến thông số kỹ thuật của tàu thuyền cũng như của hàng hóa trên tàu; 
c) Thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng ngừa đặc biệt đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên áp dụng đối với các loại tàu thuyền này; 
d) Tuân thủ quyết định của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam về việc áp dụng biện pháp phòng ngừa đặc biệt, kể cả cấm không được đi qua lãnh hải Việt Nam hoặc buộc phải rời ngay khỏi lãnh hải Việt Nam trong trường hợp có dấu hiệu hoặc bằng chứng rõ ràng về khả năng gây rò rỉ hoặc làm ô nhiễm môi trường. 
Điều 25. Tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại 
1. Chính phủ quy định về việc công bố tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại nhằm bảo đảm an toàn hàng hải. 
2. Tàu thuyền nước ngoài chở dầu hoặc chạy bằng năng lượng hạt nhân hoặc chuyên chở chất phóng xạ, chất độc hại hay nguy hiểm khi đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam có thể bị buộc phải đi theo tuyến hàng hải quy định cụ thể cho từng trường hợp. 
Điều 26. Vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải 
1. Để bảo vệ chủ quyền, quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia hoặc an toàn hàng hải, bảo vệ tài nguyên, sinh thái biển, chống ô nhiễm, khắc phục sự cố, thảm họa môi trường biển, phòng chống lây lan dịch bệnh, Chính phủ thiết lập vùng cấm tạm thời hoặc vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam. 
2. Việc thiết lập vùng cấm tạm thời hoặc vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều này phải được thông báo rộng rãi trong nước và quốc tế trong “Thông báo hàng hải”, theo tập quán hàng hải quốc tế, chậm nhất là 15 ngày trước khi áp dụng hoặc thông báo ngay sau khi áp dụng trong trường hợp khẩn cấp. 
Điều 27. Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam 
1. Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài chỉ được đi vào nội thủy, neo đậu tại một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội thuỷ hoặc công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài nội thủy Việt Nam theo lời mời của Chính phủ Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với quốc gia mà tàu mang cờ. 
2. Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài khi ở trong nội thủy, cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội thuỷ hoặc các công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài nội thủy Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác và phải hoạt động phù hợp với lời mời của Chính phủ Việt Nam hoặc thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. 
Điều 28. Trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam 
Tàu quân sự của nước ngoài khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam mà có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam có quyền yêu cầu các tàu thuyền đó chấm dứt ngay hành vi vi phạm, rời khỏi lãnh hải Việt Nam ngay lập tức nếu đang ở trong lãnh hải Việt Nam. Tàu thuyền vi phạm phải tuân thủ các yêu cầu, mệnh lệnh của lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam. 
Trường hợp tàu quân sự, tàu thuyền công vụ của nước ngoài hoạt động trong vùng biển Việt Nam mà có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật quốc tế có liên quan thì quốc gia mà tàu mang cờ phải chịu trách nhiệm về mọi tổn thất hoặc thiệt hại do tàu thuyền đó gây ra cho Việt Nam. 
Điều 29. Hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam 
Trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài phải hoạt động ở trạng thái nổi trên mặt nước và phải treo cờ quốc tịch, trừ trường hợp được phép của Chính phủ Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ của quốc gia mà tàu thuyền đó mang cờ. 
Điều 30. Quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài 
1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành các biện pháp để bắt người, điều tra đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài sau khi rời khỏi nội thủy và đang đi trong lãnh hải Việt Nam. 
2. Đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không phải ngay sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành bắt người, điều tra trong các trường hợp sau đây: 
a) Hậu quả của việc phạm tội ảnh hưởng đến Việt Nam; 
b) Việc phạm tội có tính chất phá hoại hòa bình của Việt Nam hay trật tự trong lãnh hải Việt Nam; 
c) Thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam; 
d) Để ngăn chặn hành vi mua bán người, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy. 
3. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam để bắt giữ người hay điều tra việc phạm tội đã xảy ra trư���c khi tàu thuyền đó đi vào lãnh hải Việt Nam nếu như tàu thuyền đó xuất phát từ một cảng nước ngoài và chỉ đi trong lãnh hải mà không đi vào nội thủy Việt Nam, trừ trường hợp cần ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm môi trường biển hoặc để thực hiện quyền tài phán quốc gia quy định tại điểm b khoản 1 Điều 16 của Luật này. 
4. Việc thực hiện biện pháp tố tụng hình sự phải phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan. 
Điều 31. Quyền tài phán dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài 
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được buộc tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải phải dừng lại hoặc thay đổi hành trình chỉ vì mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự đối với cá nhân đang ở trên tàu thuyền đó. 
2. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành các biện pháp bắt giữ hay xử lý về mặt dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đang đi trong vùng biển Việt Nam, trừ nội thủy, trừ trường hợp việc thi hành các biện pháp này liên quan đến nghĩa vụ đã cam kết hay trách nhiệm dân sự mà tàu thuyền phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển Việt Nam. 
3. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp bắt giữ hay xử lý tàu thuyền nước ngoài nhằm mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự nếu tàu thuyền đó đang đậu trong lãnh hải hoặc đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam
Điều 32. Thông tin liên lạc trong cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam. 
Tổ chức, cá nhân và tàu thuyền khi ở trong các cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội thuỷ hay trong công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài nội thủy Việt Nam chỉ được tiến hành thông tin liên lạc theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan. 
Điều 33. Tìm kiếm, cứu nạn và cứu hộ 
1. Trường hợp người, tàu thuyền hoặc phương tiện bay gặp nạn hoặc nguy hiểm trên biển cần sự cứu giúp thì phải phát tín hiệu cấp cứu theo quy định và khi điều kiện cho phép phải thông báo ngay cho cảng vụ hàng hải hay Trung tâm phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam hay nhà chức trách địa phương nơi gần nhất biết để được giúp đỡ, hướng dẫn cần thiết. 
2. Khi nhận biết tình trạng người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm hay nhận được tín hiệu cấp cứu của người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm cần được cứu giúp, mọi cá nhân, tàu thuyền khác phải bằng mọi cách tiến hành cứu giúp người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm nếu điều kiện thực tế cho phép và không gây nguy hiểm đến tàu thuyền, những người đang ở trên tàu thuyền của mình và kịp thời thông báo cho cá nhân, tổ chức liên quan biết. 
3. Nhà nước bảo đảm sự giúp đỡ cần thiết theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế có liên quan và trên tinh thần nhân đạo để người và tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm trên biển có thể nhanh chóng được tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả. 
4. Trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, Nhà nước có đặc quyền trong việc thực hiện các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ người và tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm cần sự cứu giúp, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. 
5. Lực lượng có thẩm quyền có quyền huy động cá nhân, tàu thuyền đang hoạt động trong vùng biển Việt Nam tham gia tìm kiếm, cứu nạn nếu điều kiện thực tế cho phép và không gây nguy hiểm cho cá nhân, tàu thuyền đó. 
Việc huy động và yêu cầu quy định tại khoản này chỉ được thực hiện trong trường hợp khẩn cấp và chỉ trong thời gian cần thiết để thực hiện công tác tìm kiếm, cứu nạn. 
6. Việc cứu hộ hàng hải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng cứu hộ hàng hải theo thỏa thuận giữa chủ tàu thuyền hoặc thuyền trưởng tàu thuyền tham gia cứu hộ với chủ tàu thuyền hoặc thuyền trưởng của tàu thuyền gặp nạn, phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan. 
7. Tàu thuyền nước ngoài vào vùng biển Việt Nam thực hiện việc tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan. 
Điều 34. Đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển 
1. Đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển bao gồm: 
a) Các giàn khoan trên biển cùng toàn bộ các bộ phận phụ thuộc khác đảm bảo hoạt động bình thường và liên tục của các giàn khoan hoặc các thiết bị chuyên dùng để thăm dò, khai thác và sử dụng biển; 
b) Các loại báo hiệu hàng hải; 
c) Các thiết bị, công trình khác được lắp đặt và sử dụng ở biển. 
2. Nhà nước có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm cả quyền tài phán theo các quy định của pháp luật về hải quan, thuế, y tế, an ninh và xuất nhập cảnh, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. 
3. Các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển và các bộ phận kèm theo hoặc phụ thuộc có vành đai an toàn 500 mét tính từ điểm nhô ra xa nhất của đảo, thiết bị, công trình hoặc các bộ phận đó, nhưng không có lãnh hải và các vùng biển riêng, trừ trường hợp pháp luật hay điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. 
4. Không xây dựng đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển cũng như không thiết lập vành đai an toàn xung quanh đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển ở nơi có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế. 
5. Khi hết hạn sử dụng, thiết bị, công trình trên biển phải được tháo dỡ khỏi vùng biển Việt Nam, trừ trường hợp được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Đối với phần còn lại của thiết bị, công trình trên biển chưa kịp tháo dỡ hoàn toàn vì lý do kỹ thuật hoặc được phép gia hạn thì phải thông báo rõ vị trí, kích thước, hình dạng, độ sâu và phải đặt các tín hiệu, báo hiệu hàng hải và nguy hiểm thích hợp. 
6. Thông tin liên quan tới việc thiết lập đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển, việc thiết lập vành đai an toàn xung quanh và việc tháo dỡ một phần hay toàn bộ thiết bị, công trình trên biển phải được cung cấp chậm nhất trước 15 ngày cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và được thông báo rộng rãi trong nước và quốc tế. 
Điều 35. Gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển 
1. Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. 
2. Khi vận chuyển, bốc, dỡ các loại hàng hóa, thiết bị có khả năng gây hại đối với tài nguyên, đời sống của con người và ô nhiễm môi trường biển, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải sử dụng thiết bị và các biện pháp chuyên dụng theo quy định để ngăn ngừa và hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra cho người, tài nguyên và môi trường biển. 
3.Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được thải, nhận chìm hay chôn lấp các loại chất thải công nghiệp, chất thải hạt nhân hoặc các loại chất thải độc hại khác trong vùng biển Việt Nam. 
4. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan làm ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường biển trong vùng biển, cảng biển, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam thì bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nếu gây thiệt hại thì phải làm sạch, khôi phục lại môi trường và bồi thường theo quy định của pháp luật. 
5. Tổ chức, cá nhân hoạt động trên các vùng biển Việt Nam có nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp về bảo vệ môi trường biển theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan. 
Điều 36. Nghiên cứu khoa học biển 
1. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, chịu sự giám sát của phía Việt Nam, bảo đảm cho các nhà khoa học Việt Nam được tham gia và phải cung cấp cho phía Việt Nam các tài liệu, mẫu vật gốc và các kết quả nghiên cứu liên quan. 
2. Khi tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ những quy định sau đây: 
a) Có mục đích hòa bình; 
b) Được thực hiện v���i phương thức và phương tiện thích hợp, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan; 
c) Không được gây cản trở đối với các hoạt động hợp pháp trên biển theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan; 
d) Nhà nước Việt Nam có quyền tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam và có quyền được chia sẻ các tài liệu, mẫu vật gốc, sử dụng và khai thác các kết quả khoa học thu được từ các hoạt động nghiên cứu, khảo sát đó. 
Điều 37. Quy định cấm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam 
Khi thực hiện quyền tự do hàng hải, tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, tổ chức, cá nhân không được tiến hành các hoạt động sau đây: 
1. Đe dọa chủ quyền, quốc phòng, an ninh của Việt Nam; 
2. Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, đánh bắt hải sản trái phép; 
3. Khai thác trái phép dòng chảy, năng lượng gió và tài nguyên phi sinh vật khác; 
4. Xây dựng, lắp đặt, sử dụng trái phép các thiết bị, công trình nhân tạo; 
5. Khoan, đào trái phép; 
6. Tiến hành nghiên cứu khoa học trái phép; 
7. Gây ô nhiễm môi trường biển; 
8. Cướp biển, cướp có vũ trang; 
9. Các hoạt động bất hợp pháp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế. 
Điều 38. Cấm tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí, chất nổ, chất độc hại 
Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí hoặc chất nổ, chất độc hại cũng như các loại phương tiện thiết bị khác có khả năng gây hại đối với người, tài nguyên và ô nhiễm môi trường biển. 
Điều 39. Cấm mua bán người, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy 
1. Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được mua bán người, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy. 
2. Khi có căn cứ về việc tàu thuyền, tổ chức, cá nhân đang mua bán người hoặc vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam có quyền tiến hành khám xét, kiểm tra, bắt giữ, dẫn giải về các cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam hoặc dẫn giải, chuyển giao đến các cảng, bến hay nơi trú đậu của nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để xử lý. 
Điều 40. Cấm phát sóng trái phép 
Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được phát sóng trái phép hoặc tuyên truyền, gây phương hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam. 
Điều 41. Quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài 
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam nếu các tàu thuyền này đang ở trong nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam. 
Quyền truy đuổi được tiến hành sau khi lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển đã phát tín hiệu yêu cầu tàu thuyền vi phạm hay có dấu hiệu vi phạm pháp luật dừng lại để tiến hành kiểm tra nhưng tàu thuyền đó không chấp hành. Việc truy đuổi có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải Viêt Nam nếu được tiến hành liên tục, không ngắt quãng. 
2. Quyền truy đuổi cũng được áp dụng đối với hành vi vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm trong phạm vi vành đai an toàn và trên các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. 
3. Việc truy đuổi của các lực lượng tuần tra, kiểm soát Việt Nam chấm dứt khi tàu thuyền bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia khác. 
CHƯƠNG IV: PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN 
Điều 42. Nguyên tắc phát triển kinh tế biển 
Phát triển kinh tế biển bền vững, hiệu quả theo các nguyên tắc sau đây: 
1. Phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 
2. Gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn trên biển. 
3. Phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. 
4. Gắn với phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương ven biển và hải đảo. 
Điều 43. Phát triển các ngành kinh tế biển 
Nhà nước ưu tiên tập trung phát triển các ngành kinh tế biển sau đây: 
1. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng sản biển; 
2. Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác; 
3. Du lịch biển và kinh tế đảo; 
4. Khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản; 
5. Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ về khai thác và phát triển kinh tế biển; 
6. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển. 
Điều 44. Quy hoạch phát triển kinh tế biển 
1. Căn cứ lập quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm: 
a) Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của cả nước; chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia; 
b) Định hướng chiến lược phát triển bền vững và chiến lược biển; 
c) Đặc điểm, vị trí địa lý, quy luật tự nhiên của các vùng biển, vùng ven biển và hải đảo; 
d) Kết quả điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển; thực trạng và dự báo nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển của cả nước, của vùng và của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương; 
đ) Giá trị tài nguyên và mức độ dễ bị tổn thương của môi trường biển; 
e) Nguồn lực để thực hiện quy hoạch. 
2. Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm: 
a) Phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và hiện trạng khai thác, sử dụng biển; 
b) Xác định phương hướng, mục tiêu và định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển; 
c) Phân vùng sử dụng biển cho các mục đích phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; xác định các vùng cấm khai thác, các vùng khai thác có điều kiện, khu vực cần bảo vệ đặc biệt cho mục đích quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và bảo tồn hệ sinh thái và đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình trên biển; 
d) Xác định vị trí, diện tích và thể hiện trên bản đồ các vùng sử dụng mặt biển, đáy biển, đảo; 
đ) Xác định cụ thể các vùng bờ biển dễ bị tổn thương như bãi bồi, vùng bờ biển xói lở, rừng phòng hộ, đất ngập nước, cát ven biển, xác định vùng đệm và có các giải pháp quản lý, bảo vệ phù hợp; 
e) Giải pháp và tiến độ thực hiện quy hoạch. 
3. Chính phủ xây dựng phương án tổng thể phát triển các ngành kinh tế biển quy định tại Điều 43 của Luật này và tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển của cả nước trình Quốc hội xem xét, quyết định. 
Điều 45. Xây dựng và phát triển kinh tế biển 
1. Nhà nước có chính sách đầu tư xây dựng, phát triển các khu kinh tế, cụm công nghiệp ven biển, kinh tế các huyện đảo theo quy hoạch, bảo đảm hiệu quả, phát triển bền vững. 
2. Việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển được thực hiện theo quy định của Chính phủ. 
Điều 46. Khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển 
1. Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới hậu cần biển, phát triển kinh tế các huyện đảo; có chính sách ưu đãi để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư sinh sống trên các đảo. 
2. Nhà nước khuyến khích, ưu đãi về thuế, vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân đầu tư khai thác tiềm năng và thế mạnh phát triển trên các đảo. 
3. Nhà nước khuyến khích, ưu đãi về thuế, vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tăng cường hoạt động ngư nghiệp và các hoạt động khác trên biển, đảo; bảo vệ hoạt động của nhân dân trên biển, đảo. 
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này. 
CHƯƠNG V: TUẦN TRA, KIỂM SOÁT TRÊN BIỂN 
Điều 47. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển 
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển bao gồm:các lực lượng có thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các lực lượng tuần tra, kiểm soát chuyên ngành khác. 
2. Lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vệ của tổ chức, cơ quan đóng ven biển và các lực lượng khác có trách nhiệm tham gia tuần tra, kiểm soát trên biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy động. 
Điều 48. Nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển 
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có nhiệm vụ sau đây: 
a) Bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo của Việt Nam; 
b) Bảo đảm việc tuân thủ pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; 
c) Bảo vệ tài sản nhà nước, tài nguyên và môi trường biển; 
d) Bảo vệ, giúp đỡ, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ đối với người, tàu thuyền hoạt động trên các vùng biển, đảo của Việt Nam; 
đ) Xử lý hành vi vi phạm pháp luật trên các vùng biển, đảo của Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. 
2. Phạm vi trách nhiệm cụ thể của các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển thực hiện theo các quy định pháp luật. 
3. Nhà nước bảo đảm những điều kiện cần thiết để các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển hoàn thành nhiệm vụ được giao. 
Điều 49. Cờ, sắc phục và phù hiệu 
Khi thi hành nhiệm vụ, tàu thuyền thuộc lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển phải được trang bị đầy đủ quốc kỳ Việt Nam, số hiệu, cờ hiệu; cá nhân thuộc lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển được trang bị đầy đủ quân phục, trang phục của lực lượng cùng với các dấu hiệu đặc trưng khác theo quy định của pháp luật. 
CHƯƠNG VI: XỬ LÝ VI PHẠM 
Điều 50. Dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm 
1. Căn cứ vào quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển ra quyết định xử lý vi phạm tại chỗ hoặc dẫn giải người, tàu thuyền vi phạm vào bờ hoặc yêu cầu cơ quan hữu quan của quốc gia mà tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý vi phạm. 
2. Khi dẫn giải vào bờ để xử lý, người và tàu thuyền vi phạm phải được áp giải về cảng, bến hay nơi trú đậu gần nhất được liệt kê trong danh mục cảng, bến hay nơi trú đậu đã được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam công bố theo quy định của pháp luật. 
Trường hợp vì yêu cầu bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của người trên tàu thuyền, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể quyết định dẫn giải người và tàu thuyền vi phạm đó đến cảng, bến hay nơi trú đậu gần nhất của Việt Nam hoặc của nước ngoài theo quy định của pháp luật. 
Điều 51. Biện pháp ngăn chặn 
1. Cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam; tàu thuyền được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm có thể bị tạm giữ nhằm ngăn chặn việc vi phạm pháp luật hoặc để bảo đảm việc xử lý theo pháp luật. 
2. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam người có hành vi vi phạm pháp luật; việc tạm giữ tàu thuyền được thực hiện theo quy định của pháp luật. 
Điều 52. Thông báo cho Bộ Ngoại giao 
Khi tiến hành bắt, tạm giữ, tạm giam người có hành vi vi phạm pháp luật, hoặc tạm giữ tàu thuyền nước ngoài, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho Bộ Ngoại giao để phối hợp xử lý. 
Điều 53. Xử lý vi phạm 
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm các quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; cá nhân vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 
CHƯƠNG VII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH 
Điều 54. Hiệu lực thi hành 
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013
Điều 55. Hướng dẫn thi hành 
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật."
(Lưu ý, có khả năng những nội dung trên đây có thể giống với toàn bộ nội dung của Luật Biển Việt Nam 2012 sẽ được công bố trong thời gian tới)

Luật Biển Việt Nam 2012